Vào năm 2020 tôi có được ngân hàng mời làm thẻ tín dụng hạn mức 200 triệu đồng, và một món vay tín chấp 87 triệu online. Từ đó cho đến tháng 11/2023 tôi vẫn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình không chậm trễ ngày nào. Tuy nhiên, nay tôi bị bệnh ung thư phổi, đồng thời do công ty gặp khó khăn nên phải bán hết tài sản cho ngân hàng thu hồi nợ, hiện nay tôi không còn một tài sản và nguồn thu nhập nào khác.
Cuối năm 2023 tôi đã nhiều lần trình bày với ngân hàng xin cho tôi được đáo hạn để tôi đóng lãi chứ không thể trả nỗi nợ gốc với những lí do trên có kèm theo cả những giấy tờ về bệnh của tôi (ung thư phổi di căn xương, ho ra máu...) và tôi cũng hứa là sẽ cố gắng trả dần bớt nợ gốc khi tình hình ổn định hơn. Tôi vẫn mong mình khoẻ hơn để lo trả nợ chứ không muốn chết mà mang theo nợ. Nhưng phía ngân hàng làm áp lực chứ không muốn nghe thiện chí của tôi. Về phía ngân hàng không đồng ý và từ đó đến nay tiền lãi phạt đã nhảy lên gần cả 100 triệu đồng, và ngân hàng liên tục gọi điện nhắc nợ và đăng tin trên fb nhằm làm nhục, gọi điện cho con cái và bạn bè người thân đe doạ. Tôi và các con phải bỏ luôn fb nên giờ cũng không còn nguồn thu nhập nào.
NỘI DUNG CẦN TƯ VẤN:
* Món vay cá nhân này con cái tôi có trách nhiệm phải trả không nếu tôi chết.
* Nếu tôi mất khả năng chi trả khi không còn tài sản gì cả (tài sản thừa kế từ cha mẹ cũng đã bị phát mãi trước đó hết rồi) thì tôi phải chịu trách nhiệm dân sự như thế nào
* Bây giờ tôi phải làm sao với bên cho vay để cho sự việc được yên ổn?
Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn sau đây của chúng tôi:
1. Về nghĩa vụ trả nợ
Căn cứ quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự 2015: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Về nghĩa vụ của bên vay tài sản được quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự 2015:
“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Theo đó, chị có khoản vay tín chấp tại ngân hàng Vpbank. Khi đến hạn trả nợ, chị có nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng theo thỏa thuận. Nếu quá thời hạn vay mà chị không trả nợ cho ngân hàng thì ngân hàng có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết. Trường hợp chị không thi hành bản án thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì cơ quan thi hành án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế tài sản, khấu trừ từ thu nhập...của chị để đảm bảo khoản vay của ngân hàng. Trong trường hợp chị không còn bất cứ tài sản nào và cũng không có bất cứ khoản thu nhập nào thì ngân hàng có thể phải chịu rủi ro không thu hồi được khoản nợ và buộc phải đợi khi chị có tài sản, có thu nhập để thu hồi khoản công nợ này.
2. Con cái có trách nhiệm phải trả nợ thay bố mẹ?
Theo quy định tại Điều 70 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì:
“Điều 70. Quyền và nghĩa vụ của con
1. Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
2. Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.
3. Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc.
Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
4. Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình.
5. Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì con cái không có nghĩa vụ trả nợ thay cho cha mẹ. Hiện nay, Bộ luật dân sự 2015 chỉ quy định trường hợp con phải trả nợ khoản vay của bố mẹ trong trường hợp con là người bảo lãnh cho khoản vay của cha mẹ hoặc trường hợp con được nhận di sản thừa kế từ cha mẹ.
Căn cứ quy định tại Điều 615 Bộ luật dân sự 2015 về việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:
“Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân”.
Như vậy, người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại. Theo thông tin chị cung cấp thì khoản nợ của chị tại ngân hàng là khoản vay tín chấp cá nhân của chị. Giả sử trường hợp chị mất mà chưa trả hết nợ thì các con của chị chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay chị nếu như được nhận di sản thừa kế từ chị và chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi phần tài sản mà mình được nhận. Trường hợp chị không còn bất kỳ tài sản nào để thừa kế lại cho các con thì các con chị không có nghĩa vụ trả khoản nợ của ngân hàng.
3. Về hành vi đưa thông tin của chị lên mạng xã hội
Hiện nay, chị không có khả năng trả nợ, sau khi đã trình bày hoàn cảnh và xin gia hạn nợ với phía ngân hàng nhưng không được chấp nhận. Như đã phân tích ở trên, ngân hàng có quyền khởi kiện chị ra tòa án để yêu cầu trả nợ. Tuy nhiên, hành vi đăng tin trên facebook nhằm mục đích xúc phạm danh dự, nhân phẩm của chị, gọi điện cho người thân, bạn bè đe dọa là hành vi vi phạm pháp luật. Cụ thể:
Điều 34 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”. Việc đưa thông tin các thành viên trong gia đình kèm theo những lời lẽ xúc phạm, nhục mạ làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của gia đình chị.
Về trách nhiệm dân sự, chị có quyền khởi kiện ra Tòa án yêu cầu người thực hiện hành vi này đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại cho gia đình chị.
Ngoài ra, hành vi này tùy từng tính chất, mức độ có thể xem xét xử lý hình sự về tội làm nhục người khác hoặc tội vu khống theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Chị có thể làm đơn tố cáo hành vi của những đối tượng này lên cơ quan công an để yêu cầu xem xét trách nhiệm hình sự.
Trường hợp hành vi của những đối tượng này chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan công an có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, mức xử phạt từ 10.000.000 – 20.000.000 đồng.
Lưu ý:
Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả.
Quý khách hàng vui lòng liên hệ:
Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818
Hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: