Nội dung yêu cầu tư vấn:
Luật sư cho tôi hỏi tôi giới thiệu một người bạn (gọi là A) để chạy án cho gia đình người em (gọi là C) tôi có bị phạm tội không? và số tiền là 3tỷ chuyển cho người chạy án 2tỷ tôi giữ 1tỷ nhưng không lo được việc bên chạy án mới chuyển lại đc 200tr cho tôi, tôi phải chuyển cho bên bị hại là 2,2tỷ + 200= 2,4tỷ còn 600tr nữa tôi chưa có tiền trả bên bị hại đâm đơn kiện tôi. Tôi nhận tiền không có giấy tờ gì chỉ tin nhắn và họ gọi đt cho tôi và họ ghi âm cuộc gọi. Nhưng trong cuộc gọi tôi cũng không nói gì tôi chỉ nói là tôi giới thiệu nếu bên kia không lo đc việc không trả lại tiền thì tôi chịu trách nhiệm. Sau vài tháng tôi trả đc 1,7tỷ còn 1,3tỷ tôi có viết một tờ giấy nhận nợ với gia đình họ là tôi còn nợ 1.3tỷ hẹn trong tháng 9 trả nhưng tôi mới trả đc 700tr còn 600tr nữa tôi giờ khó khăn chưa trả nổi nên họ nhắn tin là họ đâm đơn kiện tôi. 2tỷ bên bị hại chuyển thẳng vào số tk của người chạy án không đưa qua tôi nhưng tôi lại nhắn tin số tk cho họ bảo họ chuyển vào.
Mời bạn đọc tham khảo nội dung tư vấn dưới đây của Luật Tháng Mười:
.jpg)
1. Về hành vi giới thiệu người để chạy án:
Người giới thiệu người khác để “chạy án” có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội môi giới hối lộ theo quy định tại Điều 365 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 như sau:
“1. Người nào môi giới hối lộ mà của hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
b) Lợi ích phi vật chất.
…
4. Phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm.”
Để xác định anh giới thiệu A để chạy án có phạm tội không cần căn cứ vào cấu thành của tội danh.
Môi giới hối lộ là hành vi làm trung gian giữa người nhận và người đưa hối lộ theo yêu cầu của một trong hai bên hoặc của cả hai bên. Người môi giới hối lộ là người có hành vi giới thiệu hoặc giúp cho bên đưa hối lộ và bên nhận hối lộ gặp nhau để thỏa thuận việc hối lộ như lựa chọn địa điểm, thời gian, chuyển lời đề nghị, yêu cầu giữa các bên…hoặc nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc phi vật khác cho bên đưa đưa hối lộ hoặc nhận hối lộ. Thời điểm hoàn thành tội môi giới hối lộ được tính từ thời điểm bên nhận hối lộ và bên đưa hối lộ đạt được sự thỏa thuận đưa và nhận hối lộ.
Theo thông tin anh cung cấp: anh giới thiệu, kết nối C để chạy án với số tiền là 3 tỷ đồng; C chuyển trực tiếp cho A 2 tỷ đồng (anh là người cung cấp số tài khoản của bên chạy án để người có nhu cầu họ chuyển tiền); và anh giữ lại 1 tỷ đồng.
Hành vi này được xác định phạm tội môi giới hối lộ nếu có các yếu tố sau:
Thứ nhất, hành vi giới thiệu A để chạy án cho C. Hai bên cũng đã nhắn tin, gọi điện trao đổi về việc nhờ A chạy án, trong đó có nêu rõ nếu không chạy được án thì anh sẽ chịu trách nhiệm và anh là người gửi số tài khoản của bên A cho C và A cũng đã nhận được số tiền là 2 tỷ đồng. Như vậy, hành vi của anh được xem làm trung gian môi giới giữa A và C.
Thứ hai, cần phải xác minh thêm A có phải là người có chức vụ, quyền hạn để chạy án hay không? bởi Điều 354 Bộ luật hình sự quy định: người nhận hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích cho bản thân hoặc cho người khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Theo đó, trường hợp A không phải người có chức vụ, quyền hạn để chạy án thì chưa đủ cơ sở để kết luận ngay anh phạm tội môi giới hối lộ mà phải xét thêm trường hợp A mặc dù không có chức vụ quyền hạn, nhưng sau khi nhận được tiền của C, A tiếp tục kết nối với người có chức vụ, quyền hạn thì có thể xem xét trách nhiệm của anh với vai trò đồng phạm của tội môi giới hối lộ (cùng với A).
2. Trách nhiệm pháp lý của các bên
Trường hợp này, anh cũng nên trao đổi với A và yêu cầu trả lại tiền, đồng thời làm việc với C về việc cho gia hạn thời gian trả nợ hợp lý. Nếu không trả tiền thì tất cả các bên đều có thể phát sinh các rủi ro về pháp lý sau:
Trường hợp như phân tích tại mục 1.1 nếu A và bản thân anh không phải là người có chức vụ, quyền hạn và sau khi nhận được tiền A cũng không liên hệ với người có chức vụ quyền hạn để đưa tiền, thì với hành vi này có thể có dấu hiệu của tội Lừa đảo chiến đoạt tài sản theo điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 khi: thời điểm đưa tiền để chạy án A có dấu hiệu gian dối hay không? Ví dụ: đưa ra các thông tin gian dối về chức vụ quyền hạn, vai trò của mình để anh hoặc C lầm tưởng người này có khả năng, quan hệ để chạy được án bởi Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 quy định như sau:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
...
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
…”
Như vậy, nếu A và/hoặc anh dùng thủ đoạn gian dối ngay từ đầu nhằm lấy tiền của C thì phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Nếu A có căn cứ chứng minh việc đã đưa tiền cho người có chức vụ, quyền hạn đang giải quyết hoặc có khả năng tác động đến người có chức vụ, quyền hạn thì có cơ sở xác định A và/hoặc anh là trung gian đưa hối lộ. Lúc này C và A có thêm khả năng là đồng phạm bị truy tố tội danh Đưa hối lộ theo điều 364 bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017
“Điều 364. Tội đưa hối lộ
1. Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
…
4. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
…”
Trong trường hợp C chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
3. Tổng kết:
- Nếu A và/hoặc anh không đưa ra được cơ sở chứng minh việc mình đã đưa tiền cho ai, chức vụ, quyền hạn của người đó như thế nào thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 Bộ Luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) với mức hình phạt cao nhất có thể lên đến chung thân.
- Trường hợp chứng minh được việc đưa tiền cho ai, người có chức vụ, quyền hạn như thế nào thì A và/hoặc anh có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội Môi giới hối lộ theo điều 365 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017.
- Trường hợp A là người có chức vụ, quyền hạn có thể chạy án thì người này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Nhận hội lộ theo quy định tại điều 354 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, còn anh sẽ phạm tội Môi giới hối lộ như phân tích nêu trên.
- Trường hợp A bị truy tố hình sự tội môi giới hối lộ hoặc nhận hối lộ thì C có thể bị truy tố tội đưa hối lộ theo điều 364 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017.
Do đó, các bên nên cân nhắc để lựa chọn phương án xử lý vụ việc cho phù hợp.
4. Khởi kiện đòi nợ (dân sự)
Theo thông tin anh cung cấp, anh giới thiệu A nhưng A không lo được việc nên anh đồng ý đứng ra chịu trách nhiệm. Anh đã trả tiền và viết giấy nhận nợ 1,3 tỷ đồng, hiện đã trả được 700 triệu, còn nợ lại 600 triệu hẹn trong tháng 9 hoàn thành trả nợ nhưng hiện nay chưa trả được.
C có nhắn tin thông báo sẽ khởi kiện, về bản chất nếu các bên không nhắc đến nguyên nhân hình thành món nợ này (quan hệ nhờ chạy án, nhờ đưa hối lộ ...) thì đơn thuần đây là quan hệ dân sự, tranh chấp là “kiện đòi tài sản” và giải quyết theo quy định của pháp luật dân sự về nghĩa vụ trả nợ, khi bản án có hiệu lực pháp luật mà anh không tự nguyên thi hành thì theo yêu cầu, cơ quan thi hành án sẽ tiến hành cưỡng chế thi hành bao gồm cả việc kiểm kê/kê biên tài sản nhằm phát mại để đảm bảo thi hành án.
Trường hợp việc khởi kiện, có tài liệu chứng cứ được các bên cung cấp về việc nhờ “chạy án” thì về bản chất đây không phải là giao dịch vay tài sản mà là giao dịch thực hiện một công việc nhất định với nội dung mà pháp luật không cho phép. Theo Điều 123 Bộ luật dân sự 2015 quy định giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội như sau:
“Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.”
Như vậy, giao dịch dân sự sẽ vô hiệu khi vi phạm điều cấm của luật, hai bên sẽ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Do đó, trong trường hợp của anh, giao dịch giữa anh và C khi ký kết hợp đồng vay tiền là vô hiệu. Khi tiếp nhận vụ kiện nêu trên, tòa án có trách nhiệm xem xét nếu có dấu hiệu hình sự thì sẽ chuyển hồ sơ sang cơ quan cảnh sát điều tra để điều tra theo quy định, vụ án dân sự có thể tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Lưu ý:
Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả.
Quý khách hàng vui lòng liên hệ: Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 Hoặc gửi về địa chỉ email: congtyluatthang10@gmail.com
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: