Trách nhiệm của VPCC khi hồ sơ công chứng là giả mạo

Trách nhiệm của VPCC khi hồ sơ công chứng là giả mạo

2024-08-14 16:42:52 98

Tôi có mua một căn hộ chung cư ngày 4/6/2024 tại văn phòng công chứng, tôi đã kí hợp đồng mua bán với chủ cũ, giấy tờ có (Hợp đồng mua bán gốc với chủ đầu tư, biên bản bàn giao, giấy xác nhận đã thanh toán đủ tiền và chưa được cấp sổ đỏ) nhận bàn giao nhà tôi có nộp hồ sơ thông báo giao dịch này tại lễ tân và ở đây cho đến nay, ngày 30/6/2024 chủ đầu tư điện thoại thông báo cho tôi giấy tờ mua bán giả mạo, tôi xác minh lại thì được biết căn hộ trên không phải là của vợ chồng người đã bán cho tôi (chủ nhà là một người khác) và căn hộ này đang có giao dịch thế chấp vay tiền tại ngân hàng quân đội MB bank vậy tôi muốn hỏi trách nhiệm của phòng công chứng này sẽ phải bồi thường tôi như thế nào? Cảm ơn luật sư

Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn sau đây của chúng tôi:

Theo thông tin anh cung cấp thì người bán căn hộ cho anh (anh A) có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh A bị truy cứu TNHS theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Văn phòng công chứng được xác định như sau:

Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản. Điều 7 Luật công chứng năm 2014 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm, trong đó:

1. Nghiêm cấm công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng thực hiện các hành vi sau đây:

b) Thực hiện công chứng trong trường hợpmục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; xúi giục, tạo điều kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện giao dịch giả tạo hoặc hành vi gian dối khác;

2. Nghiêm cấm cá nhân, tổ chức thực hiện các hành vi sau đây:

a) Giả mạo người yêu cầu công chứng;

b) Người yêu cầu công chứng cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo hoặc bị tẩy xóa, sửa chữa trái pháp luật để yêu cầu công chứng;

…”

Như vậy, A là người yêu cầu công chứng đã có hành vi cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, sử dụng các giấy tờ, văn bản giả mạo để yêu cầu công chứng. Hành vi của A là vi phạm điều cấm của pháp luật và trực tiếp gây ra thiệt hại cho bên mua. Vì vậy, trước hết trách nhiệm hoàn trả số tiền đã lừa đảo là của A.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của văn phòng công chứng, văn phòng công chứng có trách nhiệm xem xét tính hợp pháp của các loại giấy tờ, đảm bảo mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, đồng thời không được tạo điều kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện các giao dịch giả tạo hoặc hành vi gian dối khác. Công chứng viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản do mình công chứng. Trong đó, trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng được quy định tại Điều 38 Luật công chứng năm 2014 như sau:

Điều 38. Bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng

1. Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng.

2. Công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”.

Theo đó, VPCC phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng nếu công chứng viên, nhân viên, cộng tác viên của tổ chức mình có lỗi gây ra thiệt hại trong quá trình công chứng. Để yêu cầu VPCC có trách nhiệm bồi thường thiệt trước hết cần xác định công chứng viên, nhân viên hoặc cộng tác viên của VPCC có lỗi trong quá trình công chứng gây ra thiệt hại cho người yêu cầu công chứng hay không.

Theo thông tin anh cung cấp thì A có hành vi làm giấy tờ giả (giả Hợp đồng mua bán gốc với chủ đầu tư, biên bản bàn giao, giấy xác nhận thanh toán tiền) để công chứng bán căn hộ cho anh. Đồng thời, với cùng một bộ hồ sơ và các thông tin về tài sản, chủ sở hữu giả mạo đó thì A cũng thế chấp căn hộ tại ngân hàng MB. Để xác định trách nhiệm bồi thường của VPCC cần làm rõ các yếu tố lỗi sau:

- Trường hợp VPCC có lỗi trong việc không kiểm tra đầy đủ thông tin liên quan đến việc căn hộ A đã được thế chấp tại ngân hàng MB trên hệ thống thì có căn cứ rõ ràng VPCC đã có lỗi trong quá trình công chứng dẫn đến thiệt hại và có trách nhiệm cùng A bồi thường thiệt hại cho anh. Mức bồi thường thiệt hại của VPCC và A sẽ căn cứ trên tỷ lệ lỗi của mỗi bên dẫn đến thiệt hại xảy ra.

Tuy nhiên, nếu như việc thế chấp căn hộ tại Ngân hàng MB không được đăng ký giao dịch bảo đảm (lỗi do các bên thực hiện hợp đồng thế chấp) thì VPCC không có lỗi trong việc công chứng hợp đồng mua bán tài sản đang bị thế chấp tại ngân hàng.

- Đối với lỗi của VPCC trong việc công chứng hợp đồng có các giấy tờ giả mạo: Khi thực hiện việc công chứng, để chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự thì công chứng viên ngoài việc kiểm tra các giấy tờ tùy thân, hồ sơ, quan sát thái độ người yêu cầu công chứng, Công chứng viên cần sử dụng các biện pháp nghiệp vụ như sử dụng máy soi, kính lúp… để quan sát kỹ giấy tờ do người yêu cầu công chứng cung cấp.

Về cơ bản, công chứng viên có một phần lỗi trong việc công chứng nội dung các hợp đồng, giao dịch sử dụng các giấy tờ giả mạo. Tuy nhiên, thông thường Công chứng viên chỉ có thể phân biệt được giấy tờ giả nếu việc làm giả sơ sài, còn với những tài liệu được làm giả một cách tinh vi thì bằng mắt thường khó có thể nhận biết được.

Do vậy, để xác định mức độ lỗi của VPCC thì cần dựa trên quá trình điều tra vụ án, xác định các thủ đoạn, tính chất, mức độ trong hành vi phạm tội của A qua đó xác định tỷ lệ lỗi, trách nhiệm và mức bồi thường thiệt hại của VPCC.

Ngoài ra, trường hợp VPCC biết việc A thực hiện hành vi lừa đảo hoặc có sự bàn bạc, cố ý tạo điều kiện cho A thực hiện hành vi phạm tội, chiếm đoạt tài sản của người khác thì công chứng viên cũng bị truy cứu TNHS về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản với vai trò đồng phạm của A. Khi đó, văn phòng công chứng và A cùng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh theo tỷ lệ lỗi của mỗi bên.

Lưu ý:

Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả, Quý khách hàng vui lòng liên hệ:

Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com.

Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!

Bình luận:

Quý Khách hàng có nhu cầu tư vấn, xin vui lòng để lại thông tin dưới đây cho chúng tôi

Đăng ký email để nhanh chóng nhận được những thông tin pháp lý mới nhất từ chúng tôi