Tôi là công dân Việt Nam, dân tộc Kinh. Chồng tôi là công dân Singapore, hiện đang cư trú tại Việt Nam (đã có thẻ tạm trú). Tôi sinh bé vào ngày 10/3/2024 tại Hà Nội. Vậy khi đi làm giấy khai sinh cho con có được mang 2 quốc tịch không? Tên con có được có yếu tố nước ngoài không?
Mời bạn tham khảo bài viết sau đây của chúng tôi:
1. Về quốc tịch của con khi khai sinh
Căn cứ theo quy định tại Điều 16 Luật quốc tịch năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) về quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam như sau:
“1. Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam.
2. Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con. Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam.”
Đồng thời, theo quy định tại Điều 36 Luật hộ tịch năm 2014 quy định về thủ tục đăng ký khai sinh thì:
“Điều 36. Thủ tục đăng ký khai sinh
1. Người đi đăng ký khai sinh nộp giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Luật này cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ là người nước ngoài thì phải nộp văn bản thỏa thuận của cha, mẹ về việc chọn quốc tịch cho con.
Trường hợp cha, mẹ chọn quốc tịch nước ngoài cho con thì văn bản thỏa thuận phải có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước ngoài mà người đó là công dân.
2. Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy thông tin khai sinh đầy đủ và phù hợp, công chức làm công tác hộ tịch ghi nội dung khai sinh theo quy định tại Điều 14 của Luật này vào Sổ hộ tịch; trường hợp trẻ em có quốc tịch nước ngoài thì không ghi nội dung quy định tại điểm c khoản 1 Điều 14 của Luật này.
Công chức làm công tác hộ tịch, người đi đăng ký khai sinh cùng ký tên vào Sổ hộ tịch. Phòng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy khai sinh cho người được đăng ký khai sinh.
3. Chính phủ quy định thủ tục đăng ký khai sinh đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 35 của Luật này”.
Theo các quy định trên thì trong trường hợp con sinh ra có mẹ là người Việt Nam, bố là người có quốc tịch nước ngoài thì quốc tịch của con khi làm khai sinh sẽ do cha, mẹ thỏa thuận để lựa chọn. Trường hợp không thỏa thuận được thì con có quốc tịch Việt Nam. Như vậy, khi làm khai sinh cho con chị không thể đăng ký cho con đồng thời có 02 quốc tịch.
Với mong muốn con có đồng thời 2 quốc tịch chị xem xét một trong hai trường hợp sau:
Trường hợp 1: Khi khai sinh cho con tại Việt Nam, cha mẹ lựa chọn quốc tịch cho con là quốc tịch Việt Nam. Sau khi con có quốc tịch Việt Nam, cha mẹ tìm hiểu thủ tục nhập tịch cho con tại Singapore theo quy định của pháp luật Singapore. Về điều kiện nhập quốc tịch Singapore cho con mà vẫn giữ quốc tịch Việt Nam chị cần tìm hiểu pháp luật Singapore có cho phép hay không.
Trường hợp 2: Cha mẹ lựa chọn quốc tịch cho con là quốc tịch Singapore. Sau khi con có giấy khai sinh và có quốc tịch Singapore, chị có thể tìm hiểu thủ tục nhập tịch cho con có quốc tịch Việt Nam mà không phải từ bỏ quốc tịch nước ngoài theo quy định tại Điều 19 Luật quốc tịch 2008 (sửa đổi, bổ sung 2014):
“Điều 19. Điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam
1. Công dân nước ngoài và người không quốc tịch đang thường trú ở Việt Nam có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam;
b) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam;
c) Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng Việt Nam;
d) Đã thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam;
đ) Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
2. Người xin nhập quốc tịch Việt Nam có thể được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải có các điều kiện quy định tại các điểm c, d và đ khoản 1 Điều này, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
a) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam;
b) Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;
c) Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Người nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những người quy định tại khoản 2 Điều này, trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép.
4. Người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có tên gọi Việt Nam. Tên gọi này do người xin nhập quốc tịch Việt Nam lựa chọn và được ghi rõ trong Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
5. Người xin nhập quốc tịch Việt Nam không được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu việc đó làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.
6. Chính phủ quy định cụ thể các điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam.
Khoản 3 Điều này được hướng dẫn tại Điều 9 của Nghị định 16/2020/NĐ-CP như sau:
“Điều 9. Trường hợp đặc biệt xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam
Người xin nhập quốc tịch Việt Nam thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam, nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây thì được coi là trường hợp đặc biệt quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam và được trình Chủ tịch nước xem xét việc cho nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải thôi quốc tịch nước ngoài:
1. Có đủ điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam.
2. Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam và việc nhập quốc tịch đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài là có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
3. Việc xin giữ quốc tịch nước ngoài của người đó khi nhập quốc tịch Việt Nam là phù hợp với pháp luật của nước ngoài đó
4. Việc thôi quốc tịch nước ngoài dẫn đến quyền lợi của người đó ở nước ngoài bị ảnh hưởng.
5. Không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Theo đó, khi chị vẫn còn quốc tịch Việt Nam thì con có thể được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải từ bỏ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên.
2. Về việc đặt tên cho con có yếu tố nước ngoài
- Trường hợp khi khai sinh chị lựa chọn quốc tịch cho con là quốc tịch Singapore. Khi đó, tên của con được đặt theo quy định của pháp luật của Singapore và bằng tiếng Singapore. Nếu sau này con chị thuộc trường hợp được nhập tịch Việt Nam thì được lựa chọn 1 tên Việt Nam khác (theo Khoản 4 Điều 19 Luật quốc tịch).
- Trường hợp khi khai sinh chị lựa chọn quốc tịch cho con là quốc tịch Việt Nam, khi đó con chị là công dân Việt Nam nên việc đặt tên cho con phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Cụ thể:
Theo quy định tại Điều 26 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“Điều 26. Quyền có họ, tên
1. Cá nhân có quyền có họ, tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có). Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó.
2. Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ.
...
3. Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.
Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ
4. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình.
5. Việc sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Như vậy, tên của Công dân Việt Nam phải bằng Tiếng Việt hoặc bằng tiếng dân tộc khác của Việt Nam và không đặt tên bằng số, ký tự mà không phải là chữ. Đối với họ của con thì vẫn trên nguyên tắc họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ. Theo quy định của Bộ luật dân sự về nguyên tắc đặt tên thì bạn có thể lựa chọn cho con mang họ của cha (là tiếng nước ngoài) nhưng mang tên Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế áp dụng thì một số địa phương căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 6 của Thông tư 04/2020/TT-BTP: “Việc xác định họ, dân tộc, đặt tên cho trẻ em phải phù hợp với pháp luật và yêu cầu giữ gìn bản sắc dân tộc, tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp của Việt Nam; không đặt tên quá dài, khó sử dụng” để yêu cầu cha mẹ lựa chọn họ cho con là họ của mẹ (họ tiếng Việt) để đảm bảo giữ gìn bản sắc, dân tộc, tập quán và truyền thống của Việt Nam.
Lưu ý:
Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, Quý khách vui lòng liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả, Thông tin liên hệ:
Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com.
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: