Thời hiệu thừa kế đối với trường hợp người để lại di sản chết trước năm 1990

Thời hiệu thừa kế đối với trường hợp người để lại di sản chết trước năm 1990

2024-09-16 15:08:54 108

Ông bà cụ nội tôi sinh được 6 người con (4 trai, 2 gái), ông nội tôi là con thứ 3. khi các con lập gia đình, ông bà cố nội tôi cho con trai mỗi người 1 mảnh đất. Ông cụ nội tôi mất năm 1965 còn bà cụ nội tôi mất năm 1968 không để lại di chúc.

Về phần ông bà nội tôi: Ông Bà nội tôi sinh được 5 người con, bố tôi là con trưởng. Năm 1960 ông nội tôi mất. Đến năm 1970 bố mẹ tôi kết hôn và sống cùng bà nội và bà cô tôi là chị gái của ông nội tôi không có gia đình. Từ năm 1970 đến năm 1982 bố tôi, các cô, chú tôi lần lượt thoát ly đi bộ đội và làm công nhân ở xa không ai ở cùng với bà nội, bà cô tôi và gia đình tôi trên mảnh đất của ông bà cụ nội tôi để lại, một mình mẹ tôi chăm lo cho gia đình, con cái, chăm mẹ chồng ốm đau bệnh tật mà không ai đóng góp gì để nuôi bà. Đến năm 1991 thì bà nội tôi mất và ông bà tôi cũng không để lại di chúc gì của mảnh đất đó.

Năm 1984 nhà nước bắt đầu đo đạc để làm hồ sơ địa chính xã, và bố tôi là người đứng tên trên hồ sơ địa chính xã (khi đó bà nội tôi còn sống).

Liên quan đến mảnh đất nói trên:

- Năm 2005 bố tôi mất, đến năm 2007 nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình tôi và hiện tại mẹ tôi là người đứng tên trên giấy tờ đất đó.

- Tháng 03 năm 2020 các cô, chú em của bố tôi về đòi chia đất nhưng gia đình tôi không đồng ý.

Vậy xin hỏi luật sư:

- Căn cứ vào luật thừa kế thì mảnh đất trên các cô, chú tôi có được thừa kế không hay nó thuộc quyền sở hữu của mẹ tôi?

- Nếu mảnh đất đó phải chia thì công nuôi dưỡng, chăm sóc gây dựng mảnh đất trên của mẹ tôi được hưởng như thế nào?

Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn sau đây của chúng tôi:

Theo thông tin chị cung cấp thì năm 2007 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp cho gia đình chị (mẹ chị là người đứng tên chủ hộ). Như vậy, hiện nay gia đình chị là người sử dụng đất được nhà nước công nhận.

Tuy nhiên, nếu như những người cô, chú của chị có tranh chấp về quyền sử dụng đất liên quan đến quyền thừa kế của ông bà nội chị thì cần xem xét lại nguồn gốc sử dụng đất cũng như việc kê khai để làm hồ sơ địa chính ở xã năm 1984 và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thực hiện đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định hay không.

* Trường hợp 1: Không chứng minh được nguồn gốc sử dụng đất của ông bà nội hoặc ông bà cụ nội

Nếu như các cô chú không chứng minh được quyền sử dụng đất là của ông bà nội hoặc của cụ nội thì trường hợp bố chị kê khai năm 1984 đứng tên trên hồ sơ địa chính và sau đó được cấp một trong các giấy tờ quy định tại Điều 50 Luật Đất đai 2003 là phù hợp với quy định pháp luật:

Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đấtvà không phải nộp tiền sử dụng đất:

a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đấttạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;…”

Theo đó, nếu có một trong các giấy tờ trên, dựa theo hồ sơ địa chính đã kê khai, đến năm 2007 gia đình được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, điều kiện được cấp Giấy chứng nhận là do sử dụng ổn định, không có tranh chấp tại thời điểm đó và có các giấy tờ hợp lệ chứng mình thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình chị là phù hợp quy định của pháp luật, các cô chú không có căn cứ để yêu cầu phân chia di sản thừa kế.

* Trường hợp 2: Chứng minh được nguồn gốc sử dụng đất của ông bà nội (do được thừa kế từ cụ nội)

Trong trường hợp này, nếu cô chú chứng minh được mảnh đất có nguồn gốc là đất của ông bà nội hoặc của ông bà cố nội qua các giấy tờ ghi nhận về quyền sử dụng đất, hồ sơ địa chính,… thì có cơ sở xác định đây là di sản thừa kế của ông bà nội hoặc của cụ nội để lại theo hướng dẫn tại mục 1 phần II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình như sau:

1. Xác định quyền sử dụng đất là di sản

1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.

1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế…”

Khi chứng minh được nguồn gốc sử dụng đất là của ông bà cụ nội hoặc ông bà nội, thì mảnh đất được xác định là di sản thừa kế. Tại thời điểm kê khai hồ sơ địa chính (năm 1984), ông nội đã chết (năm 1960) nên đã phát sinh quyền thừa kế của những người cô, chú. Do vậy, cần xem xét việc bố chị kê khai sử dụng đất thì bà nội các cô, chú có biết hoặc có sự thỏa thuận nào trong gia đình hay không.

Trường hợp, khi bố chị kê khai hồ sơ có sự thỏa thuận với bà nội và các cô chú hoặc các bà nội và cô chú biết và không có ý kiến, không phản đối về việc bố chị kê khai và đứng tên một mình, sau đó gia đình chị đã sinh sống ổn định từ đó đến nay thì được coi như đã có sự thỏa thuận về việc phân chia di sản thừa kế, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình chị là có căn cứ.

Trường hợp bố chị không thông báo về việc kê khai hồ sơ địa chính cho bà nội và các cô chú biết hoặc không được sự đồng ý của các cô chú thì việc bố chị đứng tên trên hồ sơ địa chính là chưa phù hợp với trình tự, quy định của pháp luật. Do đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp có thể bị thu hồi, hủy bỏ do có sự sai sót về chủ sở hữu hợp pháp của mảnh đất. Những người cô, chú có quyền yêu cầu phân chia di sản thừa kế. Tuy nhiên, trong trường hợp này cần xem xét thời hiệu yêu cầu chia thừa kế được xác định tại điều 623 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

Điều 623. Thời hiệu thừa kế

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

Thời hiệu thừa kế đối với trường hợp người để lại di sản chết trước năm 1990 thì sẽ được tính từ ngày 19/10/1990. Do ông nội đã mất từ 1960, do vậy, hiện nay đã hết thời hiệu yêu cầu chia phần di sản thừa kế của ông để lại. Tuy nhiên, tại điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình có đưa ra trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện:

2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo Ủy quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.

Do bố chị đã mất từ năm 2005, sau đó mẹ chị mới được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đang quản lý, sử dụng đến nay. Mẹ chị không phải là người thừa kế thuộc hàng thứ nhất của ông bà nội nên được coi là chiếm hữu bất hợp pháp. Bởi vậy, trong trường hợp các cô chú khởi kiện yêu cầu kiện đòi di sản thừa kế thì có thể sẽ không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.

Di sản thừa kế của ông bà nội được chia đều cho 05 người con, trong đó, phần di sản của bố chị theo quy định của điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 sẽ được chia đều cho mẹ chị và các con.

Trong trường hợp mảnh đất bị phân chia cho các thừa kế, cần xác định thứ tự ưu tiên thanh toán các nghĩa vụ trước khi phân chia như sau:

Điều 658. Thứ tự ưu tiên thanh toán

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

3. Chi phí cho việc bảo quản di sản.

4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ...”

Có thể thấy, trước khi phân chia di sản thừa kế phải tiến hành thanh toán các khoản nêu trên, trong đó có công sức đối với đất đai và với người để lại di sản. Công sức đối với đất đai bao gồm nhiều loại như: Công sức tạo lập tài sản, phát triển tài sản; Công sức giữ gìn tài sản; Công sức bảo quản tài sản; Công sức tôn tạo tài sản; Công sức làm tăng giá trị của tài sản;… Do đó, với công sức của mẹ chị đã cải tạo, xây dựng, tạo lập được tài sản có trên đất của ông bà, mẹ chị sẽ được tính công sức đó bằng tiền hoặc bằng hiện vật, theo quy định tại Điều 618 Bộ luật Dân sự 2015.

Bên cạnh đó, Án lệ số 05/2016/AL về tranh chấp di sản thừa kế có ghi nhận, công sức chăm sóc được giải quyết thanh toán khi phân chia di sản. Hiện nay, pháp luật có quy định về công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế nhưng không có quy định pháp luật nào về vấn đề tính tiền công sức chăm sóc, phụng dưỡng bố mẹ mà thường do Hội đồng xét xử căn cứ vào tình hình thực tế để xem xét giải quyết.

Lưu ý:

Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả,

Quý khách hàng vui lòng liên hệ:

Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 

Hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com.

Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!

Bình luận:

Từ khóa: 

Quý Khách hàng có nhu cầu tư vấn, xin vui lòng để lại thông tin dưới đây cho chúng tôi

Đăng ký email để nhanh chóng nhận được những thông tin pháp lý mới nhất từ chúng tôi