Tôi tham gia đấu giá và trúng đấu giá lô đất A. Tuy nhiên, UBND huyện không phê duyệt kết quả trúng đấu giá cho tôi với lý do: Công ty tổ chức đấu giá thông báo bán đấu giá thấp hơn giá khởi điểm của UBND huyện phê duyêt. Việc không phê duyệt kết quả trúng đấu giá cho tôi đúng hay sai và tôi phải làm thế nào.
Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn sau đây của chúng tôi:
Theo thông tin anh cung cấp, anh tham gia đấu giá quyền sử dụng đất do UBND huyện tổ chức thực hiện và đơn vị thực hiện cuộc bán đấu giá quyền sử dụng đất là một công ty đấu giá.
Hiện tại đã có kết quả trúng đấu giá nhưng chưa được UBND huyện phê duyệt kết quả đấu giá với lý do: Công ty tổ chức đấu giá thông báo bán đấu giá thấp hơn giá khởi điểm của UBND huyện phê duyệt.
Theo quy định tại Điều 2 Luật đấu giá tài sản 2016, thì việc đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai sẽ được thực hiện theo trình tự, thủ tục tại Luật đấu giá tài sản.
Trước hết cần xem xét quy định về các trường hợp hủy kết quả đấu giá tài sản tại Điều 72 Luật đấu giá tài sản 2016. Theo đó, kết quả đấu giá QSD đất có thể bị hủy bỏ trong các trường hợp sau:
“1. Theo thỏa thuận giữa người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản và người trúng đấu giá về việc hủy kết quả đấu giá tài sản hoặc giữa người có tài sản đấu giá và người trúng đấu giá về việc hủy giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, trừ trường hợp gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức;
2. Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy định của pháp luật về dân sự trong trường hợp người trúng đấu giá có hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 5 Điều 9 của Luật này.
3. Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản bị hủy bỏ theo quy định tại khoản 6 Điều 33 của Luật này;
4. Người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản, đấu giá viên có hành vi thông đồng, móc nối, dìm giá trong quá trình tham gia đấu giá dẫn đến làm sai lệch thông tin tài sản đấu giá hoặc hồ sơ tham gia đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sản;
5. Theo quyết định của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp đấu giá tài sản nhà nước khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 6 Điều 33 của Luật này.”
Trong đó:
- Điểm b, khoản 5 Điều 9 Luật đấu giá tài sản quy định nghiêm cấm người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, cá nhân, tổ chức khác thực hiện hành vi: “Thông đồng, móc nối với đấu giá viên, tổ chức đấu giá tài sản, người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá khác, cá nhân, tổ chức khác để dìm giá, làm sai lệch kết quả đấu giá tài sản”.
- Khoản 6 Điều 33 Luật đấu giá tài sản quy định: “Người có tài sản đấu giá có quyền hủy bỏ hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Tổ chức không có chức năng hoạt động đấu giá tài sản mà tiến hành cuộc đấu giá hoặc cá nhân không phải là đấu giá viên mà điều hành cuộc đấu giá, trừ trường hợp cuộc đấu giá do Hội đồng đấu giá tài sản thực hiện;
b) Tổ chức đấu giá tài sản cố tình cho phép người không đủ điều kiện tham gia đấu giá theo quy định của pháp luật tham gia đấu giá và trúng đấu giá;
c) Tổ chức đấu giá tài sản có một trong các hành vi: không thực hiện việc niêm yết đấu giá tài sản; không thông báo công khai việc đấu giá tài sản; thực hiện không đúng quy định về bán hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá, tổ chức đăng ký tham gia đấu giá; cản trở, hạn chế người tham gia đấu giá đăng ký tham gia đấu giá;
d) Tổ chức đấu giá tài sản thông đồng, móc nối với người tham gia đấu giá trong quá trình tổ chức đấu giá dẫn đến làm sai lệch thông tin tài sản đấu giá hoặc hồ sơ tham gia đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sản;
đ) Tổ chức đấu giá tài sản tổ chức cuộc đấu giá không đúng quy định về hình thức đấu giá, phương thức đấu giá theo Quy chế cuộc đấu giá dẫn đến làm sai lệch kết quả đấu giá tài sản.”
Căn cứ theo các quy định trên, việc tổ chức đấu giá thông báo giá khởi điểm thấp hơn so với giá được UBND huyện nhưng nếu không có sự thông đồng, móc nối giữa công ty đấu giá với người tham gia đấu giá để dìm giá, làm sai lệch kết quả đấu giá nêu tại khoản 4 Điều 72 và điểm b, khoản 5 Điều 9 Luật đấu giá tài sản thì cũng không thể hủy bỏ kết quả trúng đấu giá của anh.
Chỉ với thông tin về việc tổ chức đấu giá tài sản thông báo đấu giá thấp hơn giá khởi điểm do UBND huyện phê duyệt thì chưa đủ cơ sở, căn cứ để làm rõ các vấn đề liên quan đến dìm giá, gây sai lệch kết quả trúng đấu giá. Vì vậy, UBND huyện cần xác minh thêm các thông tin khác như: giá trúng đấu giá tài sản, phương thức đấu giá, hình thức đấu giá, quy trình đấu giá tài sản …để có cơ sở kết luận về việc có làm sai lệch kết quả đấu giá hay không?
Trong trường hợp việc thông báo về giá khởi điểm bị sai lệch so với giá khởi điểm được UBND huyện phê duyệt chỉ là sai sót về mặt kỹ thuật của bên tổ chức đấu giá, người tham gia đấu giá không biết, không có sự móc nối để dìm giá hoặc không có các lý do khác theo quy định tại Điều 72 Luật đấu giá tài sản thì không có cơ sở hủy bỏ kết quả đấu giá tài sản.
Về quy định phê duyệt kết quả trúng bán đấu giá quyền sử dụng đất:
Điều 12 Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP quy định về phê duyệt kết quả đấu giá quyền sử dụng đất như sau:
“1. Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận bàn giao hồ sơ và Biên bản kết quả thực hiện cuộc bán đấu giá quyền sử dụng đất từ đơn vị thực hiện cuộc bán đấu giá quyền sử dụng đất, đơn vị tổ chức thực hiện việc đấu giá quyền sử dụng đất lập hồ sơ gửi cơ quan tài nguyên và môi trường để trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền đã quyết định đấu giá quyền sử dụng đất, ban hành quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất.
2. Hồ sơ trình ban hành quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất, bao gồm:
a) Dự thảo quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất;
b) Quyết định đấu giá quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền;
c) Hồ sơ thửa đất đấu giá;
d) Hợp đồng thuê tổ chức thực hiện cuộc bán đấu giá quyền sử dụng đất;
đ) Báo cáo về việc tổ chức thực hiện cuộc bán đấu giá và Biên bản kết quả bán đấu giá thành công quyền sử dụng đất.
3. Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ký ban hành quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất đã bán đấu giá thành công để gửi cho cơ quan tài nguyên và môi trường, đơn vị tổ chức thực hiện việc đấu giá quyền sử dụng đất, cơ quan thuế và người đã trúng đấu giá quyền sử dụng đất. Quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất bao gồm các nội dung sau:
a) Căn cứ pháp lý để ban hành quyết định;
b) Vị trí, diện tích, mục đích, hình thức, thời hạn sử dụng đất và hạ tầng kỹ thuật, tài sản gắn liền với thửa đất (nếu có);
c) Tên, địa chỉ của người trúng đấu giá quyền sử dụng đất;
d) Số tiền trúng đấu giá quyền sử dụng đất và hạ tầng kỹ thuật, tài sản gắn liền với đất (nếu có); phương thức, địa điểm, thời gian phải nộp tiền trúng đấu giá;
đ) Đơn vị thực hiện ký hợp đồng thuê đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trúng đấu giá;
e) Trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị có liên quan.”
Theo đó, khi kết quả trúng đấu giá không bị hủy bỏ do không có căn cứ nêu tại Điều 72 Luật đấu giá tài sản 2016 thì UBND huyện sẽ thực hiện việc phê duyệt kết quả trúng bán đấu giá quyền sử dụng đất khi có đầy đủ hồ sơ nêu tại khoản 2 Điều 12 Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP nêu trên.
Trong trường hợp kết quả đấu giá không bị hủy bỏ, nhưng UBND huyện vẫn từ chối phê duyệt kết quả trúng đấu giá thì anh có thể gửi đơn kiến nghị tới chủ tịch UBND huyện để yêu cầu làm rõ lý do, căn cứ từ chối phê duyệt kết quả trúng đấu giá theo quy định của pháp luật.
Lưu ý:
Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả,
Quý khách hàng vui lòng liên hệ:
Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818
Hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com.
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: