Làm giả giấy tờ vay tiền: Có bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản?

Làm giả giấy tờ vay tiền: Có bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản?

2025-12-05 08:51:23 19

Câu hỏi yêu cầu tư vấn: Tháng 1/2023 tôi có làm giả giấy chứng nhận sở hữu cổ phần đứng tên đồng nghiệp mà tôi quen biết để vay tiền của 1 người quen số tiền 800 triệu đồng. Tôi dùng số tiền đó đầu tư tài chính với mong muốn kiếm lời để trả lại gốc cho người mà tôi đã vay. Nhưng không may tôi đầu tư và bị người khác lừa mất hết tiền. Đến nay tôi đã mất khả năng chi trả. Tôi có ý định thành khẩn khai báo với cơ quan chức năng/toà án về sự việc trên và mong muốn có thể đi làm để hoàn trả lại số tiền trên từ từ. Nếu như vậy tôi có bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không?

Mời bạn đọc tham khảo nội dung tư vấn dưới đây của Luật Tháng Mười:

Thứ nhất, quy định của pháp luật hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:

Căn cứ khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định như sau:

Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: …”

Theo đó, người nào có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối ở đây có thể được thực hiện qua nhiều hành vi khác nhau như bằng lời nói dối, giả mạo giấy tờ, giả danh người có chức vụ quyền hạn… để khiến cho người có tài sản tin tưởng và tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội (mục đích chiếm đoạt). Nếu chỉ có thủ đoạn gian dối nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tùy từng trường hợp cụ thể, người có hành vi gian dối có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội khác hoặc chỉ là tranh chấp dân sự, kinh tế thông thường. Trường hợp của chị có hành vi làm giả Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần để vay số tiền là 800 triệu đồng để đầu tư tài chính. Trường hợp này, mặc dù chị đã có hành vi làm giả giấy tờ để vay tiền nhưng nếu tại thời điểm vay, chị không có ý định chiếm đoạt tài sản của người cho vay thì chưa có đủ yếu tố cầu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015. 

Trường hợp sau khi có được tài sản vay, chị sử dụng tài sản này đi đầu tư tài chính và loại hình đầu tư này là bất hợp pháp dẫn đến không còn khả năng trả nợ thì có dấu hiệu của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định như sau:

“Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

…b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản…..”

Theo quy định trên, người nào nhận được tiền của người khác thông qua hợp đồng vay và đã sử dụng số tiền đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không còn khả năng trả nợ thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mục đích bất hợp pháp có thể hiểu là người phạm tội sử dụng số tiền có được qua hợp đồng vay để thực hiện các hành vi trái pháp luật như đánh bạc, cá độ, lô đề, mục đích khác bị coi là bất hợp pháp … dẫn đến không còn khả năng trả nợ. Trường hợp chị sử dụng tiền đã vay này để đầu tư tài chính và loại hình đầu tư này pháp luật không cấm thì chưa khẳng định được là sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp và chưa đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Thứ hai, quy định của pháp luật về Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức:

Căn cứ khoản 1 Điều 341 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 về Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức quy định như sau:

“Điều 341. Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm. …”

Như vậy hành vi làm giả tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội là giả tài liệu của cơ quan, tổ chức. Hành vi làm giả tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức là hành vi làm ra tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức giống với tài liệu hoặc giấy tờ khác là thật của cơ quan, tổ chức đó để nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức, cá nhân. 

Giấy Chứng nhận sở hữu cổ phần là một loại giấy tờ của công ty cổ phần phát hành, cấp cho cổ đông công ty để chứng nhận số lượng và giá trị cổ phần mà cổ đông đó nắm giữ. Việc làm giả loại giấy tờ này của công ty để nhằm lừa dối người khác để cho mình vay tiền, hành vi này có dấu hiệu của Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 

Như vậy, dựa theo thông tin chị cung cấp và những phân tích ở trên, hành vi làm giả Giấy Chứng nhận sở hữu cổ phần chưa có đủ các yếu tố cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS năm 2015) và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS năm 2015)  nhưng có dấu hiệu của Tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 341 BLHS năm 2015). Trường hợp chị đã nhận thức được hành vi của mình, nếu thỏa thuận và được sự đồng ý của bên cho vay về việc cơ cấu khoản nợ thì cần tuân thủ đúng thỏa thuận đó, đồng thời phải thông báo cho công ty biết để chỉnh sửa/ thu hồi lại Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần cho phù hợp với thực tế nhằm khắc phục hậu quả. Ngoài ra, như đã phân tích nêu trên việc làm giả giấy tờ là hành vi vi phạm pháp luật, việc tự thú trước cơ quan chức năng (Cơ quan công an) là một tình tiết để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Lưu ý:

Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả.

Quý khách hàng vui lòng liên hệ: Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 Hoặc gửi về địa chỉ email: congtyluatthang10@gmail.com 

Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!

Bình luận:

Quý Khách hàng có nhu cầu tư vấn, xin vui lòng để lại thông tin dưới đây cho chúng tôi

Đăng ký email để nhanh chóng nhận được những thông tin pháp lý mới nhất từ chúng tôi