Tôi đã và đang tham gia nhiều gói bảo hiểm xe ô tô của các doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên đến nay quy định về thời hạn giải quyết bồi thường còn chồng chéo, chưa được rõ ràng, dẫn đến nhiều tranh cãi trong công tác giải quyết bồi thường, tôi xin được trợ giúp các thông tin sau:
1. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, nếu rơi vào trường hợp tai nạn có sự tham gia giải quyết của cơ quan công an/tòa án thì doanh nghiệp bảo hiểm phải giải quyết bồi thường trong thời hạn nào sau đây?
a) Không quá 30 ngày theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm
b) Đợi có kết quả giải quyết của tòa án/công an thì mới giải quyết bồi thường?
2. Trong trường hợp không có kết quả điều tra của công an thì doanh nghiệp bảo hiểm không bồi thường là đúng hay sai?
Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn sau đây của chúng tôi:
1. Về thời hạn trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường
Căn cứ theo quy định tại Điều 29 Luật kinh doanh bảo hiểm:
“Điều 29. Thời hạn trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường
Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường theo thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm; trong trường hợp không có thoả thuận về thời hạn thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường".
Theo quy định trên thì khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường theo thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Nếu trong hợp đồng bảo hiểm không có thỏa thuận về thời hạn thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ và yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường.
Như vậy, thời hạn trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường được tính từ ngày doanh nghiệp bảo hiểm nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ và yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường. Do đó, nhận định “Bằng mọi cách, không có trường hợp ngoại lệ, Doanh nghiệp bảo hiểm phải giải quyết bồi thường thiệt hại cho người mua bảo hiểm trong thời hạn theo quy định của pháp luật tối đa là 30 ngày, không có bất cứ quy định nào cho phép doanh nghiệp kéo dài thời hạn bồi thường” là chưa đúng, bởi 30 ngày được tính từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Về hồ sơ hợp lệ để yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường, hiện nay pháp luật chỉ có quy định về hồ sơ bồi thường đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo Nghị định 67/2023/NĐ-CP, đối với trường hợp anh tham gia nhiều gói Bảo hiểm vật chất xe ô tô của các doanh nghiệp bảo hiểm thì cần căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm và Quy tắc bảo hiểm vật chất xe ô tô của Công ty bảo hiểm.
Hiện nay, pháp luật không có quy định cụ thể về hồ sơ hợp lệ đối với Bảo hiểm vật chất xe ô tô mà hồ sơ hợp lệ để yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường sẽ căn cứ vào Hợp đồng bảo hiểm và Quy tắc bảo hiểm vật chất xe ô tô của doanh nghiệp bảo hiểm đó. Tuy nhiên, nếu như Hợp đồng bảo hiểm và Quy tắc bảo hiểm có những điều khoản trái với nguyên tắc của Luật kinh doanh bảo hiểm thì sẽ không được áp dụng.
Do chưa có thông tin về các doanh nghiệp bảo hiểm mà anh đã mua bảo hiểm nên chúng tôi chưa xác định cụ thể về hồ sơ hợp lệ để yêu cầu bồi thường. Trên thực tế, có một số doanh nghiệp bảo hiểm vẫn có quy định về hồ sơ bồi thường yêu cầu có kết luận điều tra của cơ quan công an. Tuy nhiên, Quy tắc bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm đều xác định một nguyên tắc, đó là nghĩa vụ lập hồ sơ bồi thường, thu thập các chứng cứ, tài liệu để hoàn thiện hồ sơ bồi thường là của Doanh nghiệp bảo hiểm.
Đồng thời, quy định tại Điểm c, Khoản 2, Điều 17, Luật kinh doanh bảo hiểm quy định “Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Do vậy, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, nếu rơi vào trường hợp tai nạn có sự tham gia giải quyết của cơ quan công an/tòa án nhưng dựa trên các tài liệu liên quan và Thông báo sơ bộ kết quả điều tra ban đầu vụ tai nạn có thể xác định được sự kiện bảo hiểm đã xảy ra và không thuộc các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ tự xác minh, thu thập các tài liệu có liên quan đến vụ tai nạn để lập hồ sơ và trả tiền bảo hiểm kịp thời mà không cần đợi kết luận điều tra cuối cùng của cơ quan công an, đảm bảo không vi phạm nghĩa vụ lập hồ sơ bồi thường và trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc người được bồi thường.
2. Trường hợp từ chối bồi thường do không có kết quả điều tra
Đối với hợp đồng bảo hiểm vật chất xe ô tô, theo quy định tại Điều 16 Luật kinh doanh bảo hiểm về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm thì:
“1. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm quy định trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xẩy ra sự kiện bảo hiểm.
2. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải được quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng.
3. Không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp sau đây:
a) Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý;
b) Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Do vậy, cần xem xét điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm. Trong Quy tắc bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm, các trường hợp loại trừ bảo hiểm thường không căn cứ vào việc không có kết luận điều tra của công an để từ chối bồi thường.
Lưu ý: Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả.
Quý khách hàng vui lòng liên hệ:
Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818
Hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: