Nội dung yêu cầu tư vấn:
Bên em là công ty sản xuất găng tay y tế có nhãn hàng X được sử dụng ở thị trường Việt Nam. Sản phẩm bên em thì có chất lượng rất tốt, khách hàng tìm mua hàng bên em rất nhiều. Do vậy, nhiều đơn vị bịa đặt là có mối quan hệ với bên em, có khối lượng cực lớn sản phẩm của bên em. Lợi dụng khách hàng có nhu cầu lớn, kí những hợp đồng khống không có thực, sau khi khách hàng kí hợp đồng trả tiền cọc đến mấy tỉ đồng thì trốn đi đến địa điểm khác.
Các khách hàng bị lừa quay lại trách móc bên công ty em, hoặc các đơn vị chưa bị lừa thì nói công ty bên em bán hàng cho cò để được giá cao hơn kiếm lời vì nhiều hơn. Công ty em muốn làm công bố để thông báo về sự việc trên.
Rất mong được tư vấn.
Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn dưới đây của Luật Tháng Mười:

Thứ nhất, xác định hành vi vi phạm:
Theo thông tin mà bạn cung cấp, Công ty bạn là đơn vị sản xuất và kinh doanh sản phẩm găng tay y tế, đồng thời là chủ sở hữu nhãn hiệu X, đã được cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu tại Cục sở hữu trí tuệ. Hiện tại, có nhiều doanh nghiệp và cá nhân đang kinh doanh, bán các sản phẩm găng tay y tế dưới nhãn hiệu X, mạo danh bao bì sản phẩm mang tên của Công ty bạn để lừa đảo khách hàng.
Theo quy định tại khoản 7 Điều 3 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP, khái niệm hàng giả được hiểu sẽ bao gồm:
- Hàng hóa có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng hoặc có giá trị sử dụng, công dụng không đúng so với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký;
- Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản hoặc định lượng chất chính tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
- Thuốc giả theo quy định tại khoản 33 Điều 2 của Luật Dược năm 2016 và dược liệu giả theo quy định tại khoản 34 Điều 2 của Luật Dược năm 2016;
- Thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật không có hoạt chất; không có đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất khác với hoạt chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; có ít nhất một trong các hàm lượng hoạt chất chỉ đạt từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng;
- Hàng hóa có nhãn hàng hóa hoặc bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo tên, địa chỉ tổ chức, cá nhân sản xuất hoặc nhập khẩu, phân phối hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã số công bố, mã số mã vạch của hàng hóa hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của tổ chức, cá nhân khác; giả mạo về nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa hoặc nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa;
- Tem, nhãn, bao bì hàng hóa giả.
Điều 213 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ bao gồm:
“1. Hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm hàng hoá giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hoá giả mạo nhãn hiệu) quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hoá sao chép lậu quy định tại khoản 3 Điều này.
2. Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý.
3. Hàng hoá sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan.”
Căn cứ vào quy định tại khoản 7 Điều 3 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP và khoản 2 Điều 213 Luật sở hữu trí tuệ 2005 thì việc các tổ chức, cá nhân lợi dụng thương hiệu X đối với thị trường sản phẩm găng tay y tế để trục lợi bất chính, bằng phương thức gắn nhãn hiệu, tên và địa chỉ của quý công ty trên sản sản phẩm găng tay y tế do các đơn vị khác sản xuất mà chưa được sự đồng ý của Công ty X để kinh doanh, được xác định là hành vi buôn bán hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu.
Tùy theo số lượng, khối lượng và mức độ nghiêm trọng mà hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể:
- Trường hợp hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ 30.000.000 đồng trở xuống thì cá nhân, tổ chức đó bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 11 và Điều 12 Nghị định 98/2020/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Trong trường hợp hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ 30.000.000 đồng trở lên thì các tổ chức, cá nhân vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo quy định tại Điều 192 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Điều 192 - Bộ luật hình sự 2015 quy định Tội sản xuất, buôn bán hàng giả:
“Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194 và 195 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 150.000.000 đồng hoặc dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.”
Việc xác định tội phạm căn cứ cụ thể vào động cơ, mục đích và hành vi vi phạm của các đối tượng thực hiện. Do vậy, để xác định chính xác tội danh, hành vi vi phạm thì quý công ty có thể trình báo sự việc tới cơ quan có thẩm quyền để xác minh, làm rõ dấu hiệu tội phạm.
Thứ hai, tư vấn phương án giải quyết:
Để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho doanh nghiệp cũng như bảo vệ được lợi ích cho người tiêu dùng. Trong thời gian này, công ty X có quyền thực hiện các phương án sau:
- Trong trường hợp có chứng cứ chứng minh là tang vật vi phạm (hàng hóa gắn dấu hiệu bị giả mạo) do các tổ chức, cá nhân nào đó sản xuất, buôn bán: Quý công ty có quyền trình báo về sự việc hàng hóa, sản phẩm của quý công ty bị mạo danh, làm giả, gửi tới cơ quan công an điều tra nơi phát hiện ra sản phẩm đang được phân phối để yêu cầu điều tra làm rõ hành vi vi phạm.
- Hoặc gửi đơn trình báo tới cơ quan quản lý thị trường để yêu cầu xác minh và xử lý vi phạm về xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu theo quy định tại Nghị định số 99/2013/NĐ-CP.
- Nếu nghi ngờ sản phẩm bị giả mạo nhãn hiệu đang hoặc sẽ được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài bởi một tổ chức, doanh nghiệp nào đó. Quý công ty có quyền gửi một bộ hồ sơ đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan tới Chi cục Hải quan nơi đang thực hiện thủ tục hải quan cho lô hàng xuất khẩu theo quy định tại khoản 7 Điều 1 Thông tư 13/2020/TT-BTC, kèm theo danh sách những người xuất khẩu hợp pháp hàng hóa có yêu cầu giám sát; danh sách những người có khả năng xuất khẩu hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp này, doanh nghiệp đề nghị phải nộp một khoản tiền hoặc chứng từ bảo lãnh của tổ chức tín dụng để bảo đảm bồi thường thiệt hại và các chi phí phát sinh theo quy định của pháp luật do việc đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan không đúng.
Lưu ý:
Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả.
Quý khách hàng vui lòng liên hệ: Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 Hoặc gửi về địa chỉ email: congtyluatthang10@gmail.com
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: