Gửi tiền nhờ người nhà mua đất hộ giờ có đòi được không?

Gửi tiền nhờ người nhà mua đất hộ giờ có đòi được không?

2024-12-26 16:13:50 48

Năm 1991 tôi có mang về VN một số tiền đưa cho bố mẹ tôi với mục đích là nhờ anh cả tôi mua hộ tôi một bất động sản, sau khi mua xong BĐS đó thì bố tôi cùng anh cả tôi đồng đứng tên sổ đỏ hộ tôi.

Sau khi bố tôi mất năm 2002, không để lại di chúc nên cả gia đình, mẹ và anh em tôi phải ra công chứng làm giấy khước từ BĐS đó để cho anh cả tôi nhận thừa kế BĐS trên và tiếp tục đứng tên hộ tôi (mọi người đều biết BĐS đó là của tôi, anh cả chỉ đứng tên hộ). Năm 2005 anh trai thứ hai của tôi ngỏ lời mượn BĐS đó để xây nhà, cho thuê, kinh doanh để có thu nhập cho gia đình, lo cho các cháu học hành. Vì vào thời điểm đó anh em hoà thuận, tin tưởng, giúp đỡ lẫn nhau nên tôi không làm hợp đồng gì cả mà chỉ nói mồm với nhau thôi nhưng cả gia đình tôi đều biết.

Nhưng sau khi mượn đất của tôi để kinh doanh, nhiều lần anh hai có nói với tôi là bảo anh cả tôi sang tên sổ đỏ cho vợ chồng anh hai mượn để tiện cho việc xin giấy phép này nọ cho tiện vì giữa anh cả và anh hai lúc đó có mâu thuẫn với nhau.

Đến năm 2009 tôi đã đồng ý và bảo anh cả sang tên sổ đỏ của BĐS đó cho anh hai mượn.

Năm 2012 tôi về thăm gia đình, lúc đó hoàn cảnh kinh tế của tôi có gặp khó khăn. Tôi có hỏi anh hai để lấy lại BĐS đó thì anh hai có trả lời tôi là: Nếu muốn lấy lại thì đưa tiền đây...lúc đó tôi thật choáng và ngạc nhiên... Từ đó tôi đã nhiều lần nhờ gia đình, anh em và cả bạn anh hai khuyên anh ấy trả lại BĐS đó cho tôi nhưng anh hai không chịu.

Tôi đã làm đơn ra UBND phường nhờ can thiệp thì anh hai đã đồng ý trả lại đất cho tôi nhưng vẫn đòi một khoản tiền rất lớn (gấp 3-4 lần khoản tiền mà UBND phường và an hem họ hàng góp ý) mới chịu trả lại cho tôi. Vậy giờ tôi cần phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình.

Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn dưới đây của Chúng tôi: 

Thứ nhất, Về việc nhờ anh cả mua hộ đất và đứng tên anh cả:

Với những thông tin bạn cung cấp chúng tôi nhận thấy thời điểm mua đất tại Việt Nam, bạn chỉ giao tiền cho bố mẹ và nhờ mua hộ, bạn không trực tiếp giao dịch, thỏa thuận việc chuyển nhượng và giao tiền cho phía người chủ đất. Do đó, giữa bạn và người chủ đất không có bất cứ giao dịch hay thỏa thuận nào nên không có căn cứ để công nhận quyền sử dụng đất đó là của bạn.

Đồng thời, pháp luật Việt Nam không công nhận hình thức nhờ người đứng tên hộ trên giấy tờ đất. Trường hợp giữa bạn với bố và anh cả có thỏa thuận về việc nhờ bố và anh cả đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thỏa thuận này sẽ bị vô hiệu. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”.

Như vậy, trong trường hợp tranh chấp xảy ra thì Tòa sẽ tuyên thỏa thuận nhờ người đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị vô hiệu, khi đó, bạn chỉ có quyền yêu cầu bố và người anh trai cả hoàn trả lại tiền đã nhận từ bạn. Quyền sử dụng đất mà bố và anh bạn nhận chuyển nhượng từ người bán được thực hiện đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định, giao dịch này là hợp pháp và được pháp luật công nhận quyền sử dụng đất cho anh trai cả và bố của bạn.

Thứ hai, về việc chuyển quyền sử dụng đất sang cho người anh thứ hai:

Năm 2002, bố bạn mất không để lại di chúc, mẹ bạn và các anh em đã làm thủ tục từ chối nhận di sản thừa kế để cho anh trai cả nhận toàn bộ thừa kế và đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Năm 2005, bạn và gia đình có thỏa thuận để cho vợ chồng người anh thứ hai mượn đất để xây nhà, cho thuê và kinh doanh. Để tiện cho việc kinh doanh, bạn và gia đình đã đồng ý sang tên sổ đỏ cho người anh thứ hai mượn. Thỏa thuận về việc cho mượn đất không được lập thành văn bản, tuy nhiên hiện nay người mượn đất đã thừa nhận việc này (có biên bản làm việc tại UBND xã/phường). Do đó, có căn cứ để chứng minh có thỏa thuận cho mượn giữa bên có đất và bên mượn.

Căn cứ quy định tại Điều 499 Bộ luật dân sự 2015 về quyền của bên cho mượn tài sản:

“1. Đòi lại tài sản ngay sau khi bên mượn đạt được mục đích nếu không có thỏa thuận về thời hạn mượn; nếu bên cho mượn có nhu cầu đột xuất và cấp bách cần sử dụng tài sản cho mượn thì được đòi lại tài sản đó mặc dù bên mượn chưa đạt được mục đích, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý.

2. Đòi lại tài sản khi bên mượn sử dụng không đúng mục đích, công dụng, không đúng cách thức đã thỏa thuận hoặc cho người khác mượn lại mà không có sự đồng ý của bên cho mượn.

3. Yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản do bên mượn gây ra”.

Đồng thời, theo quy định tại Điều 497 Bộ luật dân sự 2015 về Quyền của bên mượn tài sản:

1. Được sử dụng tài sản mượn theo đúng công dụng của tài sản và đúng mục đích đã thỏa thuận.

2. Yêu cầu bên cho mượn thanh toán chi phí hợp lý về việc sửa chữa hoặc làm tăng giá trị tài sản mượn, nếu có thỏa thuận.

3. Không phải chịu trách nhiệm về những hao mòn tự nhiên của tài sản mượn”.

Như vậy, trong trường hợp cho mượn tài sản thì phía bên cho mượn có quyền đòi lại tài sản đó nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý. Khi trả lại tài sản cho mượn thì phía bên mượn tài sản có quyền yêu cầu bên cho mượn thanh toán chi phí hợp lý về việc sửa chữa hoặc làm tăng giá trị tài sản mượn (nếu có thỏa thuận).

Hiện nay, bạn đã làm đơn gửi đi nhiều cơ quan có thẩm quyền nhờ can thiệp, người mượn tài sản đã thừa nhận thỏa thuận mượn đất và đã đồng ý trả lại đất, tuy nhiên các bên chưa thỏa thuận được về nghĩa vụ thanh toán, bồi thường.

Do trong thời gian cho mượn đất, người anh thứ hai có mong muốn được xây nhà trên đất để kinh doanh, việc xây nhà đã được sự đồng ý của bạn và toàn gia đình. Do đó, nếu hiện nay bạn đòi lại đất thì sẽ phải thanh toán chi phí hợp lý về việc người anh thứ hai đầu tư, xây dựng nhà, làm tăng giá trị của quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này, nếu không thỏa thuận được về giá trị thanh toán thì một trong hai bên có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết. Tòa án sẽ định giá tài sản để xác định giá trị tài sản tăng thêm.

Tuy nhiên bạn lưu ý, như đã phân tích ở trên, người được công nhận quyền sử dụng đất trước đó là anh trai cả của bạn. Do đó, xác định người cho mượn tài sản là anh trai cả của bạn, vì vậy người anh trai cả mới là người có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu trả lại đất đã cho mượn, đồng thời thực hiện nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý cho người anh thứ hai.

Lưu ý:

Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả.

Quý khách hàng vui lòng liên hệ: Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 Hoặc gửi về địa chỉ email: congtyluatthang10@gmail.com 

Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!

Bình luận:

Quý Khách hàng có nhu cầu tư vấn, xin vui lòng để lại thông tin dưới đây cho chúng tôi

Đăng ký email để nhanh chóng nhận được những thông tin pháp lý mới nhất từ chúng tôi