1. Tôi đang công tác tại trường học tư. Hiện tại tôi muốn xin nghỉ làm để tập trung vào việc chăm sóc con nhỏ (dưới 1 tuổi và hay bị đau ốm). Tuy nhiên tôi đang bị ràng buộc với công ty bởi 1 bản cam kết làm việc cho đến hết năm học (ngày 30.6 năm sau). Nếu tôi xin nghỉ làm trước ngày 30.6 năm sau thì tôi sẽ phải đền bù 3 tháng tiền lương. Xin hỏi tôi có phải đền bù không khi có lý do chính đáng như vậy?
2. Tôi thông báo nghỉ vào ngày 28.9. Đến ngày 6.10 thì bên phía công ty thông báo việc không trả lương tháng 9 cho tôi vì lý do chưa giải quyết được việc tôi xin nghỉ (tức phía công ty chưa biết việc tôi nghỉ thì có đền bù hay không, do có lý do chính đáng là con hay bị đau). Vậy việc giữ lương của tôi từ phía công ty là đúng hay sai?
3. Thời hạn tối đa để công ty giải quyết vấn đề của tôi là bao lâu? Nếu đến ngày 30.10 (sau 30 ngày kể từ ngày thông báo) mà công ty vẫn chưa giải quyết xong vấn đề cho tôi nghỉ việc thì tôi có được đơn phương nghỉ việc vào ngày này không?
Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn dưới đây của Chúng tôi:
Căn cứ theo quy định tại Điều 35 Bộ luật lao động 2019 về Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động:
Điều 35. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
1. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau:
a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;
c) Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng;
d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
2. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này;
b) Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tạiKhoản 4 Điều 97 của Bộ luật này;
c) Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;
d) Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
đ) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này;
e) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
g) Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.
Theo thông tin chị cung cấp bổ sung thì chị làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn 01 năm, bản cam kết làm việc đến hết ngày 30/6 không phải một cam kết làm việc sau khi được cử đi đào tạo. Do vậy, căn cứ theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 35 nêu trên thì chị có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn nhưng phải báo trước ít nhất 30 ngày (một số trường hợp thuộc khoản 2 thì không cần báo trước).
Trong trường hợp chị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo đúng quy định tại Điều 35 Bộ luật lao động 2019, đảm bảo đúng thời hạn báo trước thì chị đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật và không phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Trường hợp chị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không đúng quy định tại Điều 35 Bộ luật lao động 2019 (không tuân thủ thời hạn báo trước) thì đây là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Khi đó, chị có nghĩa vụ bồi thường theo quy định tại Điều 40 Bộ luật lao động 2019:
“1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.
Như vậy, trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, chị phải bồi thường một nửa tháng tiền lương theo HĐLĐ. Nếu chị vi phạm thời gian báo trước thì phải bồi thường một khoản tiền lương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước. Nếu có chi phí đào tạo thì phải hoàn trả chi phí đào tạo theo quy định tại Điều 62 Bộ luật lao động 2019.
Đối với cam kết làm việc cho đến hết ngày 30/6 của năm sau, không phải là một cam kết làm việc sau khi được cử đi đào tạo. Do vậy cam kết này không có giá trị ràng buộc, chị không có nghĩa vụ phải đền bù 3 tháng tiền lương. Nghĩa vụ bồi thường của chị chỉ phát sinh trong trường hợp chị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật khi vi phạm Điều 35 và mức bồi thường căn cứ theo Điều 40 Bộ luật lao động 2019.
Tại Khoản 2 Điều 48 Bộ luật lao động 2019 có quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động: “Trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên, trừ trường hợp sau đây có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày”.
Như vậy, trong thời hạn 14 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, công ty có trách nhiệm trả đầy đủ tiền lương, các chế độ liên quan của người lao động, đồng thời chị cũng có nghĩa vụ bồi thường nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.
Lưu ý:
Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả.
Quý khách hàng vui lòng liên hệ: Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 Hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: