Tôi đang làm chủ một Công ty Cổ phần X, vì khó khăn về vốn nên có hỏi vay 1 người bạn tên A một số tiền để hoạt động doanh nghiệp của mình, chủ yếu là để trả lãi cho ngân hàng hàng tháng. Bạn A đồng ý giúp, nhưng chỉ là trung gian giới thiệu người cho tôi vay tiền của 2 người B và C. Qua đó, bạn A đã chuyển tiền vào tài khoản cá nhân của tôi tổng cộng 9 lần, trong đó hầu hết là chuyển khoản từ tài khoản cá nhân của bạn A sang tài khoản cá nhân của tôi, rồi yêu cầu tôi viết bằng tay Giấy vay tiền nhận nợ với 2 người cho vay tên là B và C căn cứ vào 2 Chứng minh dân của 2 người đó mà bạn A đã gửi cho tôi qua Zalo. Giấy vay tiền viết tay thể hiện Công ty là người vay. Tôi đại diện pháp luật ký, nhưng chưa đóng dấu. Sau đó, bạn yêu cầu gửi hình ảnh của các Giấy vay tiền đó qua Zalo. Tiếp theo bạn A lại yêu cầu tôi tổng hợp lại các khoản nợ theo số liệu từ các Giấy vay tiền viết tay trước đó rồi đánh máy vi tính thành các Giấy vay tiền mới, ký tên, đóng dấu Công ty X nhận nợ với 2 người B và C.
- Lãi suất cho vay của người thứ nhất B là 2000 đồng/1 triệu/ 1 ngày.
- Lãi suất cho vay của người thứ hai C là 2.500 đồng/1 triệu/1 ngày.
Thực tế, tôi cũng chưa bao giờ gặp 2 người cho vay tiền B và C. Hiện tại, bạn A đề nghị tôi làm Hợp đồng vay tiền giữa bạn A với công ty X với lý do là bạn A đã phải nhận nợ lại từ 2 người B và C (Nghĩa là 2 người B và C đã cho bạn A vay toàn bộ số tiền mà bạn A đã cho công ty X vay trước đó). Hợp đồng vay tiền thể hiện như sau:
- Bạn A là người cho vay, công ty X là tổ chức vay.
- Số tiền vay: toàn bộ tiền gốc bạn A chuyển qua tài khoản cá nhân của tôi, lãi được tính như công thức trên.
Tài sản thế chấp: công ty X và các Quyền tài sản khác có liên quan.
Qua vụ việc trên, tôi rất mong được Quý công ty tư vấn về tính hợp pháp của các vấn đề sau:
-
Giấy vay tiền viết tay mà công ty X nhận nợ với 2 người B và C có đúng bản chất là Công ty X vay 2 người B và C hay không? Hình ảnh các Giấy vay tiền viết tay gửi qua Zalo cho bạn A có được coi là Chứng cứ để sau này B và C yêu cầu công ty X trả tiền hay không?
-
Lãi suất, công thức tính lãi suất và gốc như B và C đưa ra đã đúng theo luật pháp hiện hành?
-
Bạn A yêu cầu công ty X làm Hợp đồng vay tiền giữa Công ty X và bạn A là đúng hay sai?
-
Toàn bộ tiền vay từ bạn A đều chuyển vào tài khoản cá nhân của tôi. Vậy, tôi là người vay tiền bạn A hay Công ty X vay tiền bạn A?
-
Và nhiều vấn đề khác tôi vẫn chưa nhìn ra được từ vụ vay tiền này.
Rất mong Quý công ty hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong vụ việc thực tế này.
Mời bạn đọc tham khảo nội dung tư vấn dưới đây của Luật Tháng Mười:
![]()
Thứ nhất, Giấy vay tiền viết tay mà Công ty X nhận nợ với 2 người B và C có đúng bản chất là công ty X vay 2 người B và C hay không?
Theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 Hợp đồng vay tiền có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau:
Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Do đó xét trong trường hợp của bạn, thì chủ thể trong giao dịch dân sự này là Pháp nhân (Công ty X) mà theo qui định của phâp luật đối với các giao dịch dân sự là pháp nhân, thì giao dịch đó phải được xác lập, thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp của pháp nhân (đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền). Công ty của bạn là Công ty Cổ phần do đó nếu bạn là người đại diện theo pháp luật hợp pháp của công ty và đã được các cổ đông còn lại đồng ý với khoản vay đó, mục đích sử dụng khoản vay đó dùng hoạt động kinh doanh của công ty thì giao dịch này sẽ được xác nhận là khoản vay của công ty. Mặc dù là giấy vay tiền viết tay đó không được đóng dấu của công ty, nhưng sẽ không vô hiệu về nội dung. Công ty X vẫn phải có nghĩa vụ đối với khoản vay công ty X.
Nếu bạn không phải là người đại diện hợp pháp của công ty X thì giao dịch dân sự giữa bạn với người cho vay chỉ là giao dịch dân sự giữa cá nhân với cá nhân. Tức là giữa bạn với B và C.
Như đã phân tích tuỳ vào bạn thuộc nào bên trên để kết luận những hình ảnh bạn gửi qua zalo cho A có được coi là chứng cứ để yêu thực hiện nghĩa vụ trả giữa pháp nhân với cá nhân hay cá nhân với cá nhân. Do đó nếu giao dịch của bạn với B, C chưa được công nhận là giao dịch dân sự giữa pháp nhân với cá nhân, thì những hình ảnh gửi qua zalo của bạn cho A chỉ là chứng cứ để xác nhận việc bạn đã nhận tiền mà bạn đã vay, nhưng là của cá nhân anh chứ không phải của công ty X.
Thứ hai, Về lãi suất, công thức tính lãi suất và gốc như B và C đưa có đúng theo luật pháp hiện hành hay không?
Theo như thông tin bạn cung cấp thì công ty X nhận nợ với 2 người B và C.
- Lãi suất cho vay của người thứ nhất B là 2000 đồng/1 triệu/ 1 ngày.
- Lãi suất cho vay của người thứ hai C là 2.500 đồng/1 triệu/1 ngày.
Căn cứ theo công thức tính lãi theo như ngân hàng thông thường thì phần lãi vay sẽ được tính như sau:
Lãi vay = Số tiền vay x lãi suất : thời gian vay.
Áp theo công thức trên thì lãi suất/ năm trong trường hợp của bạn sẽ là:
Lãi suất Bên B= 2.500/1.000.000 x 365 x 100 = 91,25%/ năm.
Lãi suất Bên C = 2000/1.000.000 x 365 x100 = 73 %/ năm.
Căn cứ tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 qui định về lãi suất thì:
“Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.”
Do đó áp dụng công thức trên và đối chiếu với qui định của pháp luật thì nếu trong giao dịch dân sự lãi suất trần là 20%, lãi suất cơ bản tại thời điểm hiện tại (Ngân hàng Công thương Vietinbank) đang là: 9%. Nếu vượt lãi suất trần 20% đã là vượt quá (bị vô hiệu lãi suất). Hiện tại mức lãi suất mà bên B, C đang cho bạn vay đã vượt quá lãi suất cơ bản của nhà nước và cũng đã vượt 20%/năm.
Cách tích gốc, lãi hàng tháng để thưc hiện nghĩa vụ trả nợ do các bên tự thoả thuận. Tuy nhiên thì ngay từ đâu mức lãi suất mà B,C cho bạn vay đã vượt quá mức cho phép nên phần lãi đó đã bị vô hiệu. Trường hợp nếu có tranh chấp thì Toà án giải quyết theo mức lãi suất của Ngân hàng.
Thứ ba. Về vấn đề A yêu cầu công ty X làm Hợp đồng vay tiền giữa Công ty X và A.
Trường hợp nếu bạn A yêu cầu công ty bạn (Công ty X) ký kết Hợp đồng vay tiền giữa công ty X với bạn A thì bạn có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận để ký kết giao dịch này vì trên thực tế bạn nhận tiền từ A và A là người trực tiếp giao dịch với bạn. Tuy nhiên, để tránh rủi ro cho cá nhân bạn cũng như công ty X thì bạn nên họp và đi đến thống nhất với các cổ đông còn lại trong công ty, đồng thời bạn cần thoả thuận với B,C về việc huỷ Giấy vay tiền trước đó mà bạn đã với B và C để tránh trường hợp Giao dịch dân sự bị vô hiệu theo Điều 124 BLDS 2015 “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan”
Thứ tư, “toàn bộ tiền vay từ A đều chuyển vào tài khoản cá nhân của tôi. Vậy, tôi là người vay tiền bạn A hay Công ty X vay tiền bạn A?”
Như đã phân tích ở trên thì nếu trong giao dịch Công ty X ký với A để vay tiền thông qua hình thức Hợp đồng vay tiền (Giấy vay tiền) của Công ty với cá nhân, bạn là đại diện theo pháp luật hợp pháp của công ty, sử dụng đúng với mục đích dùng cho hoạt động kinh doanh của công ty và có thoả thuận về phương thức thanh toán chuyển khoản qua số tài khoản cá nhân thì giao dịch này vẫn được xác lập là giao dịch giữa Công ty X và A. Còn trường hợp khi viết giấy vay tiền,bạn viết vay dưới tư cách cá nhân và số tiền bên A chuyển khoản cho bạn vào tài khoản cá nhân thì người vay tiền lúc tiền của A lúc này là cá nhân bạn chứ không phải công ty X.
Thứ năm, các vấn đề phát sinh từ việc vay tiền này chúng tôi xin tư vấn như sau:
Một là, Đối với tiền anh cần xác định rõ anh muốn vay tiền với tư cách cá nhân hay pháp nhân (công ty). Để đảm bảo tính pháp lý của Hợp đồng anh cần xác định rõ đối tượng cho anh vay, nếu anh vay từ B, C thì anh cần gặp trực tiếp B,C đê ký kết lại Hợp đồng và xác nhận về việc đã nhận tiền từ A.
Hai là, nếu muốn ký Hợp đồng vay tiền từ A với Công ty X thì cần phải huỷ Giấy vay tiền (thanh lý hợp đồng) trước đó đã ký với B, C. Hướng dẫn A ký kết một giao dịch khác giữa A với B, C để đảm bảo quyền và lợi ích của B.C. Tránh trường hợp cùng 1 số tiền nhưng lại tồn tại 2 hợp đồng bởi bạn cần xác định rõ đối tượng sau này anh cần thực hiên nghĩa vụ trả nợ. Nếu sau này anh trả nợ cho A nhưng A không trả cho B,C thì B, C có thể căn cứ vào Giấy vay tiền trước đó anh đã ký kết để yêu cầu anh thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Hoặc nếu anh trả trực tiếp cho B, C nhưng anh đã ký kết Hợp đồng vay tiền với A dưới hình thức Công ty X thì khi hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ đó mà bạn không trả theo đúng Hợp đồng đã ký (mặc dù bạn đã trả số tiền đó cho B,C rồi) thì A có thể dùng Hợp đồng vay tiền đã ký kết đó để yêu cầu công ty X trả nợ. Đó là 1 trong những trường hợp sẽ xảy ra nếu bạn ký với cùng 1 số tiền vay tồn tai trên 2 Hợp đồng.
Ba là, Về vấn đề lãi suất, bạn nên thoả thuận với bên cho vay về mức lãi suất hợp lý, đúng qui định của pháp luật để tránh trường hợp xảy ra tranh chấp sau này.
Lưu ý:
Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả.
Quý khách hàng vui lòng liên hệ: Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 Hoặc gửi về địa chỉ email: congtyluatthang10@gmail.com
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: