Tôi có vay bên ngân hàng một khoản tiền và đến thời điểm trước khi thi hành án kê biên tài sản tôi có tất toán hết nợ gốc và lãi trong hạn. Hiện tại tôi còn lãi phạt khoảng 110 triệu và khi bên thi hành án thông báo ngày kê biên là ngày 10/9 thì trước đó là ngày 7/9 tôi đã tất toán xong hết nợ gốc và lãi trong hạn chỉ còn lãi phạt. Và bên thi hành án vẫn tiến hành kê biên tài sản. Sau khi kê biên tôi không ký bất kỳ giấy tờ gì. Hôm nay bên thi hành án có gọi qua làm biên bản thống nhất giá tài sản như hôm thi hành án định giá nhưng tôi cũng không ký. Vậy cho tôi hỏi bên thi hành án có thể bán tài sản của tôi được không. Và tôi có xin được bên ngân hàng miễn giảm lãi phạt đươc không ạ. Tôi phải làm như nào để thi hành án không bán đấu giá tài sản của tôi. Mong bên luật sư tư vấn giúp. Tôi xin chân thành cảm ơn
Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn dưới đây của Chúng tôi:
Thứ nhất, về việc miễn hoặc giảm lãi phạt chậm thanh toán:
Tại Khoản 4 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng 2010, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:
“4. Tổ chức tín dụng có quyền quyết định miễn, giảm lãi suất, phí cho khách hàng theo quy định nội bộ của tổ chức tín dụng.”
Theo thông tin cung cấp thì anh có nghĩa vụ thanh toán 110 triệu tiền lãi phạt chậm thanh toán cho ngân hàng trên cơ sở bản án. Do đó, với quy định trên thì để được giảm hoặc miễn số tiền lãi chậm trả này thì anh cần xem xét nội bộ của ngân hàng có quy định về vấn đề này hay không? Cụ thể, anh có trao đổi, thỏa thuận trực tiếp với bên ngân hàng. Trường hợp ngân hàng không đồng ý giảm hoặc miễn số tiền lãi chậm trả thì anh vẫn phải thanh toán khoản tiền này theo đúng nội dung trong bản án của tòa.
Thứ hai, về việc cưỡng chế thi hành án:
Theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014 thì “trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án (nếu thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn)” . Theo đó, tại trường hợp của anh tính đến thời điểm 07/09/2019, anh chưa hoàn tất các nghĩa vụ thanh toán theo bản án. Cụ thể, khoản tiền lãi phạt chậm thanh toán tương ứng 110 triệu chưa được thanh toán cho ngân hàng.
Như vậy, theo căn cứ trên thì do nghĩa vụ thanh toán của anh chưa hoàn tất nên cơ quan thi hành án vẫn có quyền thi hành án theo yêu cầu của phía ngân hàng.
- Liên quan đến việc thi hành bản án:
Tại Điều 45 Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014 quy định thời hạn tự nguyện thi hành án như sau:
“1. Thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án…”
Và Điều 46 Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014 quy định cưỡng chế thi hành án:
“1. Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.
2. Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định…”
Đối chiếu trường hợp của anh khi hết thời hạn 10 ngày tự nguyện thi hành án mà anh không thanh toán được khoản lãi 110 triệu thì cơ quan thi hành án có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của anh để thi hành án. Tuy nhiên, do anh không cung cấp thông tin cụ thể về tài sản bị thi hành án là tài sản nào? Do đó, anh có thể căn cứ theo quy định tại mục 3 đến mục 9 Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014 để xác định cơ quan thi hành án đã thực hiện tổ chức cưỡng chế thi hành án đã phù hợp quy định pháp luật hay chưa.
Ngoài ra, liên quan tới kê biên tài sản thi hành án sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 88 Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014 như sau:
“Điều 88. Thực hiện việc kê biên
1. Trước khi kê biên tài sản là bất động sản ít nhất là 03 ngày làm việc, Chấp hành viên thông báo cho đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế, đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, tài sản kê biên, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.
Trường hợp đương sự vắng mặt thì có thể uỷ quyền cho người khác thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Trường hợp đã được thông báo hợp lệ mà đương sự hoặc người được uỷ quyền vắng mặt thì Chấp hành viên vẫn tiến hành việc kê biên, nhưng phải mời người làm chứng và ghi rõ vào nội dung biên bản kê biên. Trường hợp không mời được người làm chứng thì Chấp hành viên vẫn tiến hành việc kê biên nhưng phải ghi rõ vào nội dung biên bản kê biên.
Khi kê biên đồ vật, nhà ở, công trình kiến trúc nếu vắng mặt người phải thi hành án hoặc người đang quản lý, sử dụng tài sản đó mà phải mở khoá, phá khoá, mở gói thì Chấp hành viên thực hiện theo quy định tại Điều 93 của Luật này.
2.Việc kê biên tài sản phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm kê biên, họ, tên Chấp hành viên, đương sự hoặc người được ủy quyền, người lập biên bản, người làm chứng và người có liên quan đến tài sản; diễn biến của việc kê biên; mô tả tình trạng từng tài sản, yêu cầu của đương sự và ý kiến của người làm chứng.
Biên bản kê biên có chữ ký của đương sự hoặc người được uỷ quyền, người làm chứng, đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế, Chấp hành viên và người lập biên bản.”
Theo đó, trường hợp cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thì việc kê biên phải được lập thành biên bản. Biên bản kê biên phải có chữ ký của anh, đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế, Chấp hành viên và người lập biên bản. Trường hợp anh có mặt tại thời điểm kê biên tài sản mà không ký vào biên bản kê biên thì Chấp hành viên ghi rõ vào nội dung biên bản kê biên. Nếu anh vắng mặt và không ủy quyền cho người khác thì Chấp hành viên vẫn tiến hành thủ tục kê biên tài sản nhưng phải mời người làm chứng và ghi rõ vào nội dung biên bản kê biên (không được người làm chứng thì cũng ghi rõ vào biên bản).
Như vậy, khi anh không ký vào biên bản kê biên tài sản mà cơ quan thi hành án có căn cứ pháp lý để cưỡng chế thi hành án thì Chấp hành viên vẫn có thể tiến hành kê biên tài sản của anh và ghi rõ lý do vào biên bản.
- Liên quan định giá tài sản kê biên:
Ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thoả thuận được về giá tài sản hoặc về tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên lập biên bản về thỏa thuận đó. Trường hợp đương sự không thỏa thuận được về giá tài sản thì việc định giá tài sản được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 98 Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014. Cụ thể:
“2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên trong các trường hợp sau đây:
a) Đương sự không thoả thuận được về giá và không thoả thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá;
b) Tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn từ chối việc ký hợp đồng dịch vụ;
c) Thi hành phần bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật này.
3. Chấp hành viên xác định giá trong các trường hợp sau đây:
a) Không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ quy định tại khoản 2 Điều này;
b) Tài sản kê biên thuộc loại tươi sống, mau hỏng hoặc có giá trị nhỏ mà đương sự không thoả thuận được với nhau về giá. Chính phủ quy định về tài sản có giá trị nhỏ.”
Từ quy định trên đối chiếu trường hợp của anh: Cơ quan thi hành án có liên hệ với anh để làm biên bản thống nhất giá tài sản như đã định giá nhưng anh không đồng ý ký vào văn bản này. Khi đó, trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản, Chấp hành viên có thể ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bản tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên. Nếu không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ thì Chấp hành viên trực tiếp xác định giá. Như vậy, trường hợp anh không thỏa thuận được giá tài sản thì Chấp hành viên vẫn thực hiện việc định giá và tiến hành bán tài sản đã kê biên.
- Liên quan đến yêu cầu không kê biên tài sản:
Căn cứ Điều 5 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định về thỏa thuận thi hành án như sau:
“Điều 5. Thỏa thuận thi hành án
…3. Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành án mà đương sự thỏa thuận về việc không yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với nội dung thỏa thuận không yêu cầu thi hành theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự, trừ trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án.
Trường hợp thỏa thuận nêu trên được thực hiện sau khi tài sản đã được bán hoặc giao cho người khác nhận để thi hành án thì phải được sự đồng ý của người mua được tài sản hoặc người nhận tài sản để thi hành án.”
Theo đó, trường hợp cơ quan thi hành án đang tiến hành kê biên tài sản mà anh không muốn cơ quan thi hành án bán đấu giá tài sản của mình thì anh phải thỏa thuận với ngân hàng về việc không yêu cầu thi hành án. Khi đó, Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định đình chỉ thi hành án với nội dung các bên thỏa thuận (trừ trường hợp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án,…). Trường hợp ngân hàng không đồng ý với thỏa thuận về việc không yêu cầu thi hành án thì cơ quan thi hành án vẫn tiến hành bán tài sản đã kê biên.
Như vậy, từ căn cứ pháp lý trên xác định khi hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà anh không thực hiện thanh toán đầy đủ nghĩa vụ nợ cho ngân hàng (bao gồm 110 triệu lãi chậm thanh toán) thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp cưỡng chế. Việc thực hiện kê biên tài sản và định giá tài sản kê biên đảm bảo tuân thủ theo quy định pháp luật trên thì cơ quan thi hành án có căn cứ tiến hành bán tài sản đã kê biên.
Lưu ý:
Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả,
Quý khách hàng vui lòng liên hệ:
Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818
Hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com.
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: