Tôi và vợ đang giải quyết ly hôn, tranh chấp nuôi con và chia tài sản khi ly hôn (trong file- đính kèm)
Tôi đã làm bản trình bày ý kiến nhưng chưa gửi lên Tòa án. Trong bản trình bày ý kiến này, tôi có nêu vợ tôi có tài sản tích lũy là 380 triệu đồng và có kèm chứng cứ (file 3 - đính kèm). Cho tôi hỏi luật sư, với chứng cứ này, có xác định được 380 triệu đồng đó là tài sản chung để phân chia khi ly hôn hay không? Tôi cần làm gì để Tòa án phân chia nếu đó là tài sản chung?
Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn dưới đây của Luật Tháng Mười:
Căn cứ theo những thông tin và chứng cứ anh cung cấp thì có thể thấy, vợ anh đang có khoản tiền 380 triệu đồng tiết kiệm trong ngân hàng, tuy nhiên, hiện tại vợ anh đang dùng chính số tiền tiết kiệm đó vay tiền ngân hàng để tiêu dùng. Trong trường hợp này quyền, nghĩa vụ của anh được xác định như sau:
Thứ nhất, về việc xác định số tiền 380 triệu trong sổ tiết kiệm là tài sản chung hay tài sản riêng:
Căn cứ theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về Tài sản chung của vợ chồng:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.
Tại Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về tài sản riêng của vợ, chồng:
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này”.
Như vậy, nếu như khoản tiền 380 triệu trong sổ tiết kiệm là tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, được tặng cho chung, thừa kế chung thì đây được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp khoản tiền 380 triệu này vợ anh có được trước khi kết hôn hoặc được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản được hình thành từ tài sản riêng thì đây được xác định là tài sản riêng của vợ anh..
Trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Trong trường hợp của anh, với những thông tin và chứng cứ mà anh cung cấp thì chưa thể kết luận đây là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng, việc này cần xem xét nội dung mà vợ anh giải trình về nguồn gốc số tiền để chứng minh đây là tài sản riêng của vợ anh. Trong trường hợp vợ anh cho rằng đây là tài sản riêng của mình nhưng không có căn cứ để chứng minh là tài sản riêng thì số tiền 380 triệu được coi là tài sản chung. Anh có thể yêu cầu phân chia tài sản này khi ly hôn.
Thứ hai, về khoản tiền vay ngân hàng thế chấp bằng Sổ tiết kiệm:
Theo nội dung Hợp đồng cho vay kiêm giấy đề nghị vay vốn kiêm giấy nhận nợ và hợp đồng bảo đảm lập giữa Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam và vợ anh thì: vợ anh đã dùng tài sản là sổ tiết kiệm gửi tại ngân hàng Vietcombank để vay khoản tiền tối đa là 380 triệu đồng nhằm mục đích mua sắm vật dụng gia đình phục vụ đời sống.
Như vậy, đồng thời với khoản tiền tiết kiệm trong ngân hàng thì vợ anh cũng có khoản vay nợ ngân hàng nhằm mục đích mua sắm vật dụng gia đình, phục vụ đời sống.
Theo quy định tại Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
“Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan”.
Đối với khoản nợ vay ngân hàng, mặc dù anh không xác lập hợp đồng vay, tuy nhiên, nếu như việc vay tiền của vợ anh nhằm mục đích đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ chồng anh sẽ có nghĩa vụ liên đới trong việc trả khoản nợ vay của ngân hàng.
Như vậy, đồng thời với việc xác định số tiền 380 triệu là tài sản chung của vợ chồng và anh có quyền yêu cầu phân chia khi ly hôn thì khoản nợ vợ anh vay ngân hàng nhằm mục đích mua sắm vật dụng gia đình, phục vụ đời sống cũng được xác định là khoản nợ chung của vợ chồng, anh có nghĩa vụ liên đới để trả nợ.
Lưu ý:
Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả.
Quý khách hàng vui lòng liên hệ: Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 Hoặc gửi về địa chỉ email: congtyluatthang10@gmail.com
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: