Năm 2018 mình ly hôn, sau đó mình có mua 01 lô đất, giấy tờ mang tên sở hữu của mình và xây nhà cấp 4 trên lô đất đó, nhưng vẫn chưa làm lại sổ hồng gắn liền tài sản trên đất. Đến năm 2022 mình đăng ký kết hôn với người khác. Năm 2023 mình phá dở căn nhà cấp 4 trên đất và xây lại 01 căn nhà mới, chi phí xây căn nhà mới 1 tỷ đồng. Tất cả các chi phí để xây căn nhà do bản thân mình tự bỏ ra.
Giờ mình muốn làm sổ hồng tài sản gắn liên trên đất (bao gồm đất và nhà) chỉ mang tên mình và là tài sản trước hôn nhân có được không. Xin được hướng dẫn, xin cảm ơn!
Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn dưới đây của Chúng tôi:
Theo thông tin chị cung cấp, sau khi ly hôn vào năm 2018 chị có mua một phần đất, giấy tờ phần đất này đứng tên sở hữu của chị. Năm 2020 chị có xây dựng một căn nhà cấp 4 trên phần diện tích này nhưng chưa thực hiện thủ tục cập nhật thông tin tài sản trên đất. Sau khi đăng ký kết hôn với người chồng hiện tại chị đã phá dỡ căn nhà cấp 4 cũ và xây dựng căn nhà mới lên trên phần diện tích đất này. Như vậy có thể thấy, hiện tại phần diện tích đất này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hiện nay chị chỉ muốn thực hiện thủ tục cập nhật thông tin tài sản trên đất và xác định đây là tài sản thuộc sở hữu riêng của chị.
Đối với trường hợp của chị trước khi xác định khi thực hiện thủ tục cập nhật có thể ghi riêng tên chị trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất và nhà hay không thì cần xem xét phần tài sản đất và nhà này là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng chị trong thời kỳ hôn nhân. Trong nội dung bản tư vấn, chúng tôi sẽ phân tích cụ thể về các nội dung tương ứng với trường hợp của chị. Cụ thể:
Thứ nhất, về việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Về việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì tại Điều 33 và Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định như sau:
Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
Bên cạnh đó, tại Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”
Như vậy, căn cứ theo quy định nêu trên có thể thấy các tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân mà không phải là tài sản được tặng cho riêng, thừa kế riêng hoặc tài sản được hình thành bằng tài sản riêng có trước thời kỳ hôn nhân của vợ chồng thì đều được xác định là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Đối chiếu với trường hợp của chị, tài sản của chị bao gồm đất và căn nhà hình thành trên đất.
Đối với phần diện tích đất: phần diện tích đất này được hình thành vào năm 2015 (trước thời điểm đăng ký kết hôn), hiện tại vẫn đứng tên chị trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do đó, theo các quy định tại Điều 33, Điều 43 đã nêu trên thì có căn cứ để xác định đây là tài sản riêng của chị hình thành trước thời kỳ hôn nhân.
Đối với căn nhà hình thành trên đất: mặc dù vào năm 2020 chị có xây dựng lên căn nhà cấp 4 nhưng đến tháng 2023 (sau khi đã đăng ký kết hôn) chị đã phá bỏ căn nhà và tự chi trả các chi phí xây dựng lên căn nhà mới. Do đó, có thể xác định căn nhà này là tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân.
Theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014 thì tài sản hình thành trong thời kỳ nhân là tài sản chung của hai vợ chồng trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Do vậy, đối với căn nhà này, nếu chị muốn xác định đây là tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân thì chị cần phải chứng minh được phần chi phí sử dụng để xây dựng căn nhà do chị bỏ ra là tài sản riêng của chị có trước thời kỳ hôn nhân (việc chứng minh có thể thông qua một số căn cứ như toàn bộ khoản tiền này được ghi nhận trong tài khoản ngân hàng được lập trước ngày thời điểm kết hôn năm 2022; hoặc do chị được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân…). Lúc này, đối chiếu với quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã nêu trên có thể xác định phần căn nhà là phần tài sản được hình thành từ tài sản riêng của chị trong thời kỳ hôn nhân. (1)
Thứ hai, về vấn đề cập nhật thông tin về căn nhà trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Như chúng tôi đã phân tích thì do phần diện tích đất là tài sản riêng của chị hình thành trước thời kỳ hôn nhân, do đó trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chị có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền chỉ ghi nhận thông tin cá nhân của riêng chị.
Đối với phần căn nhà, nếu chị chứng minh được đây là tài sản thuộc sở hữu riêng của chị như chúng tôi đã phân tích tại phần (1) thì cũng tương tự như phần diện tích đất chị có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền chỉ ghi nhận thông tin cá nhân của chị trên Giấy chứng nhận. Khi đó, các thông tin ghi trên Giấy chứng nhận và nguồn gốc hình thành tài sản chính là căn cứ để xác định đây là tài sản riêng của chị trong thời kỳ hôn nhân.
Nếu trong trường hợp chị không chứng minh được căn nhà này là tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân thì khi thực hiện thủ tục cập nhật thông tin trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vẫn có căn cứ để cơ quan có thẩm quyền ghi nhận thông tin chồng chị là chủ sở hữu chung đối với căn nhà. Trong trường hợp này, nếu chị muốn chỉ ghi nhận thông tin của mình trên Giấy chứng nhận thì chị và chồng nên có văn bản thỏa thuận xác nhận phần căn nhà này là tài sản thuộc sở hữu riêng của chị trong thời kỳ hôn nhân.
Lưu ý:
Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả,
Quý khách hàng vui lòng liên hệ:
Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818
Hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com.
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: