Bố chồng tôi là người đại diện hộ gia đình đứng tên giấy chủ quyền sử dụng đất. Vợ chồng tôi sống cùng bố mẹ chồng đến nay. Trong sổ hộ khẩu của gia đình tôi bố chồng tôi đứng chủ hộ, ngoài vợ chồng tôi là thành viên trong sổ hậu khẩu còn có 02 mẹ con của chị dâu (anh chồng mất đã lâu) và còn có em trai của chồng. Năm 2005 vợ chồng em trai tách hộ ra ở riêng; Năm 2007 hai mẹ con chị dâu cũng tách hộ khẩu ra ở riêng; Đến năm 2009 vợ chồng tôi tách hộ khẩu (Đứng tên chủ Hộ “sổ hộ khẩu gia đình” là chồng tôi. Còn bố, mẹ chồng tôi có “quan hệ với chủ hộ” là bố, mẹ. Từ trước đến nay vợ chồng tôi vẫn sống chung với bố mẹ chồng, hiện nay mẹ chồng vẫn còn sống; Còn bố chồng do tuổi cao sức yếu đã chết tháng 2020. Trước khi chết bố tôi không để lại di chúc hoặc giấy tờ gì sang nhượng quyền sử dụng đất cho chị dâu, nhưng đến nay (năm 2024) chị Dâu kiện đòi vợ chồng tôi phải sang tên sổ nhà đất của bố chồng tôi để lại (mọi giấy tờ nhà đất vẫn đứng tên bố chồng tôi). Xin luật sư tư vấn giúp tôi.
Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn sau đây của chúng tôi:
Theo thông tin chị cung cấp thì diện tích đất của gia đình chị đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Hộ gia đình do bố chồng chị đại diện đứng tên chủ hộ.
Theo quy định tại Khoản 25 Điều 3 Luật dất đai 2024 thì: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành”.
Thửa đất của gia đình chị được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cả hộ gia đình. Do vậy, quyền sử dụng đất là tài sản chung của các thành viên trong hộ gia đình tại thời điểm thống kê nhân khẩu, lập hồ sơ để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, một số thành viên trong hộ gia đình cắt khẩu chuyển ra nơi khác sinh sống sẽ không làm mất đi quyền sử đụng đất của họ.
Hiện nay, việc phân chia tài sản chung của hộ gia đình sẽ do các thành viên trong hộ gia đình tự thỏa thuận, trường hợp không thỏa thuận được thì tài sản sẽ được chia đều cho tất cả các thành viên, trừ trường hợp chứng minh được công sức đóng góp của mỗi thành viên trong gia đình là khác nhau thì việc phân chia tài sản căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi người.
Trong trường hợp của gia đình chị, nếu không chứng minh được công sức đóng góp của mỗi thành viên là khác nhau thì tài sản chung của hộ gia đình trước hết sẽ được chia đều cho mỗi thành viên trong hộ gia đình, mỗi người được một phần bằng nhau.
Do bố chồng chị đã chết năm 2020 và không để lại di chúc. Do vậy, phần tài sản của bố chồng chị nhận được trong khối tài sản chung với hộ gia đình được xác định là di sản thừa kế của bố chồng chị để lại và được chia thừa kế theo pháp luật theo quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
…”
Phần di sản của bố chị trong khối tài sản chung của hộ gia đình sẽ được chia thừa kế cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố chồng chị, bao gồm: ông bà nội (nếu còn sống), mẹ chồng, các con của bố chồng.
Đối với người anh trai đã chết trước khi bố chồng mất thì sẽ phát sinh quyền thừa kế thế vị cho các con của người anh trai theo quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự 2015: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Như vậy:
- Trường hợp hai mẹ con người chị dâu cũng có tên khi kê khai nhân khẩu, lập hồ sơ để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì hai mẹ con người chị dâu là đồng sở hữu quyền sử dụng đất với các thành viên khác trong gia đình. Hiện nay, người chị dâu có quyền yêu cầu phân chia tài sản chung của hộ gia đình.
- Trường hợp mẹ con người chị dâu không có tên trong hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì không có quyền yêu cầu phân chia tài sản chung của hộ gia đình, tuy nhiên những người con của chị dâu với anh chồng chị vẫn được quyền thừa kế thế vị phần di sản của bố chồng chị để lại. Khi đó những người con của anh chồng chị có quyền yêu cầu phân chia di sản thừa kế do bố chồng chị để lại.
Trường hợp gia đình không tự thỏa thuận được để phân chia tài sản chung của hộ gia đình và phân chia di sản thừa kế của người bố chồng để lại thì một trong các bên đều có quyền khởi kiện ra tòa án để yêu cầu phân chia.
Lưu ý:
Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả,
Quý khách hàng vui lòng liên hệ:
Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com.
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: