Nói dối để bán đất cho nhiều người có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Nói dối để bán đất cho nhiều người có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

2024-01-16 20:57:05 168

Nói dối để bán đất cho nhiều người

Do quen biết nên tôi được vợ chồng ông A giới thiệu cho tôi mua mảnh đất của  ông B (Diện tích: 300m2 với giá 800 triệu đồng). Ông B chỉ đưa cho tôi một bản photo sổ đỏ và nói sổ chính hiện đang ở trên Huyện chưa lấy về,  ông B cam kết với tôi, khi tôi giao đủ số tiền 800 triệu thì được bàn giao đất trên thực địa và có toàn quyền xây dựng trong ranh giới, mốc giới của thửa đất và hứa sẽ tách sổ riêng.

Trước sự chứng kiến của vợ chồng ông A, vì sự tin tưởng nên tôi đã đồng ý mua mảnh đất đó với hình thức mua bán giấy tay. Nhưng sau khi ông B nhận đủ số tiền thì ông B không cho tôi xây tường rào và có ngỏ ý số tiền đã nhận coi như tiền vay và cam kết sẽ trả lãi hàng tháng nhưng nhưng tôi không đồng ý.

Tôi có thông báo cho ông B biết tôi sẽ bán mảnh đất đó, nhưng ông B ngăn cản và hứa chờ bán được nhà phía sau sẽ trả tôi tiền; sau đó khi tìm hiểu tôi biết được sổ nhà đất ông đã thế chấp cho ngân hàng chứ không phải đang nằm trên Huyện như ông nói trước đó. Và tôi biết rằng ông B đã bán phần đất phía sau nhà và đất đã bán cho tôi cho một người khác. Xin hỏi hành vi của ông B có phải là lừa đảo không? Làm cách nào để tôi lấy lại tiền?

Mời bạn tham khảo bài viết sau đây của chúng tôi:

Theo thông tin cung cấp, chị mua 300m2 đất của ông B. Khi mua, chị cho rằng ông B che giấu việc tài sản đang thế chấp tại ngân hàng, khi bán được đất cũng không trả lại tiền cho chị. Việc xác định hành vi của ông B có phạm tội hình sự hay không cần làm rõ các yếu tố cấu thành hành vi chiếm đoạt tài sản.

Tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

[…]

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; […]”

Theo quy định nêu trên, để bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội phải thỏa mãn hai dấu hiệu bắt buộc là “ thủ đoạn gian dối”“chiếm đoạt tài sản của người khác”. Thủ đoạn gian dối phải được đưa ra từ đầu nhằm tạo sự tin tưởng, từ sự tin tưởng để chiếm đoạt tài sản; Trường hợp ông B sau khi nhận được khoản tiền 800 triệu của chị sau đó dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả thì có thể phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điều 175 Bộ luật hình sự như sau:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; […]

2. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm […]”

Đối chiếu với trường hợp của chị, nếu:

- Trước khi ký hợp đồng ông B không cung cấp đúng thông tin về việc mảnh đất đang được thế chấp tại ngân hàng, cố tình đưa ra các thông tin gian dối để lừa chị ký kết hợp đồng và chiếm đoạt số tiền 800 triệu thì hành vi của ông B có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

- Trường hợp sau khi ký kết hợp đồng, nhận tiền thanh toán sau đó ông B đưa ra các thông tin không đúng sự thật, không thực hiện các nghĩa vụ cam kết, liên tục đưa ra các thông tin gian dối để nhằm chiếm đoạt tài sản của chị hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả thì có thể phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Việc xác định ông B có mục đích chiếm đoạt hay không hay lý do tại sao ông B không trả tiền cho chị khi đã bán được đất? ... cần căn cứ thêm vào lời khai từ phía ông B, các tài liệu chứng cứ khác liên quan đến nội dung vụ việc. Mặc dù đã có dấu hiệu về việc đưa ra thông tin gian dối nhưng để làm rõ các vấn đề liên quan đến ý chí của ông B cũng như xác định hành vi của ông B có đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm hay không vẫn cần thông qua quá trình điều tra, xác minh và kết luận từ cơ quan có thẩm quyền.

Do vậy, để đảm bảo quyền lợi cho mình chị có quyền gửi đơn đến cơ quan công an cấp quận (huyện) nơi ông B đang cư trú để đề trình báo sự việc. Đơn gửi tới cơ quan công an gồm cơ bản các nội dung: Thông tin nhân thân của chị, thông tin của ông B (nếu có); nội dung sự việc và những yêu cầu (ví dụ: Xác minh hành vi của ông B của dấu hiệu tội phạm hay không; Kiến nghị xử lý hành vi của ông B ….) và cũng lưu ý khi gửi đơn, chị trình bày sự việc và các yêu cầu liên quan đến hành vi của ông B, không khẳng định/ quy chụp ông B phạm tội trong đơn để tránh rủi ro cho mình.

Hồ sở gửi đến cơ quan công an bao gồm:

- Đơn đề nghị hoặc đơn yêu cầu giải quyết;

- Hợp đồng, thỏa thuận, cam kết của các bên;

- Các chứng cứ chứng minh khác (nếu có).

Trong trường hợp sau khi nhận đơn, cơ quan công an điều tra xác minh và đưa ra nhận định chưa đủ căn cứ khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi của ông B, thì để có cơ sở đòi lại số tiền nêu trên, chị cần nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp quận (huyện) nơi ông B đang cư trú để được Tòa án tiếp nhận và giải quyết về việc tranh chấp giữa hai bên. Lúc này, cần làm rõ:

- Trường hợp đã có thỏa thuận chuyển từ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất sang hợp đồng vay tài sản, việc ông B không trả tiền theo hợp đồng vay khi đến hạn được xác định là hành vi vi phạm nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng, vi phạm pháp luật dân sự. Chị có quyền đề nghị Tòa án buộc ông B có nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi (nếu có) tương ứng với thời gian vay.

- Trường hợp các bên chưa có thỏa thuận về việc chuyển đổi hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất sang hợp đồng vay tài sản thì chị có quyền yêu cầu ông B tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trường hợp tài sản không còn thì phải trả lại tiền hoặc tài sản khác tương ứng và chịu bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra trên thực tế (Lưu ý: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải lập thành văn bản và có công chứng chứng thực. Nếu chưa thực hiện các nội dung trên thì thực hiện khởi kiện đòi lại tài sản)

Hồ sơ khởi kiện cơ bản bao gồm:

+ Chuẩn bị đơn khởi kiện gồm các nội dung chính sau:

- Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;

- Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện;

- Tên, nơi cư trú, làm việc của người khởi kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người khởi kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có).

Trường hợp các bên thỏa thuận địa chỉ để Tòa án liên hệ thì ghi rõ địa chỉ đó;

- Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cá nhân hoặc trụ sở của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có);

- Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện;

- Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân hoặc trụ sở của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có).

Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

- Quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm; những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

- Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có);

+ Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án. (Ví dụ trường hợp của chị có thể phải nộp: Hợp đồng các bên đã ký kết, căn cứ chuyển tiền, nội dng trao đổi qua tin nhắn/điện thoại/thư điện tử, ….)

Khi hồ sơ khởi kiện đầy đủ, Tòa án có thẩm quyền sẽ ra quyết định thụ lý vụ án theo quy định, trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trường hợp không hòa giải được vụ án được đưa vụ án ra xét xử. Khi bản án của Tòa án có hiệu lực trong đó ghi nhận về nghĩa vụ trả nợ của ông B thì chị có quyền gửi đơn đề nghị thi hành án để lấy lại số tiền theo nội dung bản án.

Lưu ý:

Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả, Quý khách hàng vui lòng liên hệ số hotline 093.650.0818

Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!

Bình luận:

Quý Khách hàng có nhu cầu tư vấn, xin vui lòng để lại thông tin dưới đây cho chúng tôi

Đăng ký email để nhanh chóng nhận được những thông tin pháp lý mới nhất từ chúng tôi