Nhà đất nhờ bố mẹ đứng tên bị chuyển nhượng cho người khác có lấy lại được không?

Nhà đất nhờ bố mẹ đứng tên bị chuyển nhượng cho người khác có lấy lại được không?

2024-12-16 14:10:57 37

Vợ chồng tôi có mua đất xây nhà nhưng nhờ bố mẹ chồng đứng tên chủ quyền nhà. Em gái chồng không có nhà riêng nên cũng sống chung với vợ chồng tôi và bố mẹ, cùng hộ khẩu. Năm 2020, em gái vay nặng lãi không có tiền chi trả nên xin bố mẹ chồng tôi ký giấy ủy quyền nhà để em vay tiền ngân hàng. Trong giấy ủy quyền soạn có kèm nội dung để em gái được sang nhượng mua bán mảnh đất đó. Ba mẹ chồng phần vì tin con gái, phần vì già cả không đọc nội dung ủy quyền nên đã ký cho em. Em vay ngân hàng xong, vay tiền nóng bên ngoài, rồi sang tên cho người ta mảnh đất của vợ chồng mình mua với giá 500 triệu (giá thực tế vợ chồng mình mua là 2 tỷ). Xong, bên chủ nợ của em gái mới làm thêm 1 cái phụ lục hợp đồng sang nhượng với giá 1 tỷ, có chữ ký ủy quyền của ba mẹ cho em gái và em gái ký hợp đồng, phụ lục hợp đồng. Giá thực tế khi xưa vợ chồng tôi mua đất là 2 tỷ, xây nhà thêm 700 trieu nữa là 2,7 tỷ và giá hiện tại của mảnh đất và nhà là cỡ 4 tỷ.

Em gái đã bỏ trốn, chủ nhà mới kiện ba mẹ chồng tôi ra tòa đòi ba mẹ chồng tôi phải giao đất nhà, đã ra tòa hòa giải 3 lần, tiếp theo gia đình mình phải làm sao? Nhà đó do chồng mình bỏ tiền ra mua, ba mẹ đứng tên.

Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn dưới đây của Chúng tôi: 

1. Quyền và nghĩa vụ của các bên dựa trên giấy tờ, hợp đồng đã được giao kết

Theo thông tin chị cung cấp thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên của bố mẹ chồng. Sau đó, bố mẹ chồng có ký giấy ủy quyền cho người em chồng được quyền định đoạt (sang nhượng) mảnh đất đó. Dựa vào giấy ủy quyền, em chồng chị đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác.

Theo quy định của pháp luật thì bố mẹ chồng chị là người đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên được quyền quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản. Bố mẹ chồng chị cũng có thể ủy quyền cho người khác thay mặt mình thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong nội dung ủy quyền, bố mẹ chị đã ủy quyền cho người em chồng được quyền định đoạt (sang nhượng) mảnh đất đó. Căn cứ vào hợp đồng ủy quyền, em chồng chị đã thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người thứ 3. Nếu như việc ủy quyền và chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định của pháp luật thì việc người em chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người thứ 3 là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

Dựa trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, người nhận chuyển nhượng hoàn toàn có quyền yêu cầu người đang sử dụng đất có nghĩa vụ bàn giao nhà đất. Bố mẹ chồng chị chỉ có quyền yêu cầu người con gái thực hiện nghĩa vụ giao lại tài sản, lợi ích thu được từ việc thực hiện công việc ủy quyền (trả lại số tiền bán đất).

2. Về bản chất của vụ việc

Trong trường hợp của gia đình chị, nguồn gốc số tiền mua đất và xây nhà là của vợ chồng chị, nhưng giấy tờ lại đứng tên của bố mẹ chồng. Vợ chồng chị có thể yêu cầu tòa án xác định quyền sử dụng đất có nguồn gốc là công sức đóng góp của vợ chồng mình. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì dù vợ chồng chị có chứng minh được nguồn gốc tài sản là do vợ chồng mình tạo lập thì cũng không có quyền đòi lại nhà và đất từ người mua nếu họ đã hoàn tất thủ tục sang tên sổ đỏ. Do người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có thể được xác định là người thứ 3 ngay tình theo quy định tại Điều 133 Bộ luật dân sự 2015:

"Điều 133. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.

2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.

Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

3. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại".

Như vậy, nếu vợ chồng chị yêu cầu tòa án xác định nguồn gốc tài sản là của mình thì vợ chồng chị cũng không có quyền đòi lại quyền sử dụng đất từ người mua (trừ trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa người em gái và người thứ 3 cũng bị vô hiệu), vợ chồng chị chỉ có quyền yêu cầu bố mẹ và người em gái hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại (nếu có).

Hiện nay, gia đình chị nên tìm kiếm, liên lạc với người em gái hoặc xem xét hồ sơ vụ án để biết rõ về giao dịch giữa người em gái và bên nhận chuyển nhượng để tìm căn cứ xác định hợp đồng có bị vô hiệu hay không (vô hiệu do bị lừa dối, cưỡng ép, nhằm che dấu một giao dịch khác…) để bảo vệ quyền lợi của mình.

Lưu ý:

Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả.

Quý khách hàng vui lòng liên hệ: Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 Hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com

Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!

Bình luận:

Quý Khách hàng có nhu cầu tư vấn, xin vui lòng để lại thông tin dưới đây cho chúng tôi

Đăng ký email để nhanh chóng nhận được những thông tin pháp lý mới nhất từ chúng tôi