Có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế khi giấy tờ đã sang tên một người thừa kế

Có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế khi giấy tờ đã sang tên một người thừa kế

2024-09-21 10:09:17 44

Gia đình (cha mẹ tôi) có ở trên mảnh đất của ông nội tôi để lại từ những năm 1960. Ông nội tôi có 5 người con, có 1 bác đã mất, chú út của bố tôi năm nay cũng 60 tuổi gia đình bất hòa, muốn ra đòi lại đất. Giấy tờ đất hiện mang tên bố mẹ tôi từ những năm 1980, ông nội tôi mất đã ba mươi năm. Từ 2020 đến giờ thấy chú tôi nói ra đòi lại đất. Nhờ luật sư tư vấn quyền lợi của gia đình tôi. 

Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn sau đây của chúng tôi:

Căn cứ theo quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự về Thời hiệu thừa kế:

“Điều 623. Thời hiệu thừa kế

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết). Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP thì một số giai đoạn sẽ không được tính vào thời hiệu khởi kiện, cụ thể:

“2. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện liên quan đến thừa kế

2.1. Quyền thừa kế

"Quyền thừa kế" quy định tại khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, Điều 648 của Bộ luật Dân sự bao gồm quyền yêu cầu chia di sản thừa kế, quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc quyền yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế của người khác.

2.2. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

a) Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế".

Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 0f1/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.

b) Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 01/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật Dân sự.

2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a.1) Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

a.2) Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

a.3) Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo Ủy quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản”.

Ngày 05/01/2018, tại Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC Giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ có hướng dẫn cụ thể việc áp dụng thời hiệu thừa kế:

“Trường hợp người để lại di sản thừa kế chết trước năm 1987 mà hiện nay Tòa án mới thụ lý, giải quyết tranh chấp thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được xác định như thế nào?

Kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính thì từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.

Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990.

Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-7-1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-01-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia; thời gian từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-9-2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia”.

Như vậy, theo quy định của pháp luật, thời hiệu thừa kế đối với bất động sản là 30 năm và được tính từ ngày 10/9/1990. Trường hợp thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản thừa kế có nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến 01/01/1999 không tính vào thời hiệu thừa kế phần di sản là nhà ở.

Theo thông tin anh/chị cung cấp, nguồn gốc đất là của ông bà nội, do vậy, hiện nay những người chú, bác muốn yêu cầu phân chia di sản thừa kế thì cần xem xét còn thời hiệu thừa kế hay không. Do anh/chị không cung cấp thông tin chính xác về thời điểm ông bà nội mất nên chúng tôi chưa xác định chính xác được hiện nay còn thời hiệu thừa kế hay không.

- Trường hợp người chú út khởi kiện ra tòa án để yêu cầu phân chia di sản thừa kế khi đã hết thời hiệu, bố anh/chị có quyền yêu cầu tòa án áp dụng thời hiệu thừa kế để giải quyết vụ việc. Khi hết thời hiệu thừa kế thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản (theo quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015).

- Trường hợp người chú út khởi kiện ra tòa án để yêu cầu phân chia di sản thừa kế khi chưa hết thời hiệu thừa kế thì việc phân chia di sản thừa kế được xác định trên cơ sở xác định nguồn gốc và quá trình sử dụng đất. Theo thông tin anh/chị cung cấp thì nguồn gốc đất là của ông bà nội từ những năm 1960, tuy nhiên, giấy tờ đã mang tên bố mẹ anh/chị từ những năm 1980. Do đó, để xác định người chú út có quyền yêu cầu phân chia thừa kế hay không thì cần xem xét hiện nay có giấy tờ chứng minh nguồn gốc sử dụng đất là của ông bà nội hay không và thời điểm năm 1980, bố mẹ anh/chị làm giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất theo trình tự, thủ tục nào? Có được sự đồng ý của ông bà nội hay ông bà nội có biết hay không...Do chưa có các thông tin này nên Chúng tôi chưa tư vấn cụ thể về quyền thừa kế của người chú út. Trường hợp vẫn còn thời hiệu thừa kế, anh/chị có thể thu thập thêm các thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến quyền sử dụng đất để Chúng tôi tư vấn cụ thể hơn.

Lưu ý:

Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả.

Quý khách hàng vui lòng liên hệ:

Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818

Hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com

Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!

Bình luận:

Quý Khách hàng có nhu cầu tư vấn, xin vui lòng để lại thông tin dưới đây cho chúng tôi

Đăng ký email để nhanh chóng nhận được những thông tin pháp lý mới nhất từ chúng tôi