Cho vay tiền không có giấy tờ chứng minh bằng cách nào?

Cho vay tiền không có giấy tờ chứng minh bằng cách nào?

2024-08-12 15:36:02 104

Năm 2023, tôi có cho một người bạn vay tiền thành nhiều lần, từ đầu năm 2023 đến cuối tháng 7/2023, với số tiền là 1 tỉ 750 triệu, có lấy lãi, khoản lãi này không vi phạm vay lãi nặng theo quy định của pháp luật. Vì là người thân tín nên tôi chỉ nhắn tin qua Zalo và chuyển tiền qua ngân hàng. Nội dung chuyển tiền thì chỉ ghi: "Chuyển tiền cho anh A", chứ không ghi là "Chuyển tiền cho anh A vay". Nhưng tin nhắn Zalo thì có ghi và anh A cũng xác nhận khoản vay và trả lãi.

Đến đầu T8/2023, anh A gọi điện cho tôi báo anh A cho người khác vay tiền vỡ nợ không trả được nợ, anh A cho người khác vay tiền với lãi xuất 3000đ/1 triệu/ngày, tôi có bằng chứng tin nhắn cho việc này. Từ T8/2023 đến nay, tôi nhiều lần thúc giục Anh A trả tiền để tôi kinh doanh nhưng Anh A chỉ hứa hẹn sẽ bán nhà để trả nợ. Nhưng đến nay vẫn không trả tôi tiền. Vì vậy tôi muốn làm đơn kiện anh A và nhờ luật sư tư vấn cho trường hợp này.

Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn sau đây của chúng tôi:

Tại Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về hợp đồng vay tài sản như sau: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”

Tại Điều 466 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay như sau:

“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:

a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;

b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Theo quy định tại Điều 463 nêu trên đối với hợp đồng vay tài sản, pháp luật không quy định bắt buộc phải lập thành hợp đồng, có công chứng hoặc chứng thực từ cơ quan có thẩm quyền, tuy nhiên nếu có tranh chấp xảy ra các bên có nghĩa vụ chứng minh có hay không có sự việc vay tiền xảy ra. Việc chứng minh trong trường hợp này có thể qua hợp đồng vay tiền do các bên ký kết hoặc thông tin chuyển khoản có ghi nhận việc cho vay hoặc các chứng cứ chứng minh quan hệ vay tiền khác trên thực tế.

Trong quan hệ vay tiền, bên vay có nghĩa vụ hoàn trả khoản tiền vay khi đã đến hạn theo thoả thuận. Việc bên vay tiền không hoàn trả tiền vay khi đã đến hạn được xác định là hành vi vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật.

Đối chiếu với trường hợp của anh, anh cho bạn vay số tiền 1.750.000.000 đồng từ đầu năm 2023 thời hạn vay đến tháng 7/2023 đến nay đã qua thời hạn trả nợ nhưng bên vay tiền chưa hoàn trả theo thoả thuận, trường hợp này anh có quyền khởi kiện đến Toà án nhân dân cấp quận (huyện) nơi bên vay đang cư trú để yêu cầu bên vay trả tiền. Tuy nhiên, khi khởi kiện anh có nghĩa vụ chứng minh mình có cho người bạn vay số tiền 1.750.000.000 đồng với lãi suất là bao nhiêu và đã đến thời hạn trả, anh đã nhiều lần yêu cầu trả tiền nhưng bên vay không trả theo thoả thuận. Việc chứng minh có thể qua thông tin chuyển khoản tại ngân hàng, tin nhắn zalo chính chủ của các bên xác nhận về việc anh có cho vay và bên vay đã nhận đủ số tiền vay, thông tin về việc bên vay trả lãi suất hàng tháng; ghi âm, ghi hình hợp pháp ghi nhận về nội dung trao đổi của các bên liên quan đến quan hệ vay và cho vay giữa các bên; ghi âm, ghi hình hợp pháp có nội dung xác nhận thông tin nhận nợ, hẹn thời gian trả nợ của bên vay tiền…

Sau khi có bản án có hiệu lực của Toà án xác định bên vay có nghĩa vụ trả cho anh 1.750.000.000 đồng + tiền lãi mà bên vay không trả thì anh có quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án thực hiện thi hành án dựa trên bản án, quyết định có hiệu lực của Toà án. Tuy nhiên, việc anh có đòi lại được số tiền theo bản án hay không còn tuỳ thuộc vào tại thời điểm thi hành án, bên vay tiền còn tài sản nào thuộc sở hữu của họ để thi hành án hay không.

Về lãi suất: Tại Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về lãi suất như sau:

“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

…”

Theo quy định nêu trên thì lãi suất theo quy định pháp luật là không quá 20%/năm, tức không quá 1,67%/ tháng. Nếu anh cho vay với mức lãi suất vượt quá 1,67%/tháng thì toàn bộ phần lãi suất cho vay vượt quá này không được công nhận, trường hợp khi khởi kiện bên vay chứng minh được anh cho vay với mức lãi suất vượt quá mức 1,67% nêu trên và họ đã trả lãi hàng tháng cho anh thì có thể anh sẽ phải trả lại cho họ phần lãi suất vượt quá pháp luật anh đã lấy.

Lưu ý:

Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả, Quý khách hàng vui lòng liên hệ:

Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 hoặc gửi về địa chỉ email: Congtyluatthang10@gmail.com.

Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!

Bình luận:

Quý Khách hàng có nhu cầu tư vấn, xin vui lòng để lại thông tin dưới đây cho chúng tôi

Đăng ký email để nhanh chóng nhận được những thông tin pháp lý mới nhất từ chúng tôi