Tôi và chồng kết hôn nhưng đã ly hôn vào năm 2015. Sau đó có về chung sống lại với nhau để tiện chăm sóc con nhưng không có đi đăng ký kết hôn lại.
Năm 2018 chúng tôi mua một căn chung cư giá 1 tỷ bằng tiền chung do hai vợ chồng cùng vay mượn người thân nhưng người người bạn đứng tên hộ. Sau đó, chúng tôi đã bán căn nhà đó đi và mua một căn chung cư mới với giá 2 tỷ đồng và để anh đứng tên 1 mình vì chúng tôi không có giấy đăng ký kết hôn.
Sau đó, tôi tiếp tục vay mượn tiền mua xe hơi cho chồng tôi chạy Grab (đây hoàn toàn là tiền tôi vay mượn và mẹ ruột tôi có cho thêm). Anh cũng đứng tên cái xe này luôn.
Sau thời gian chung sống, tôi đi làm ăn xa thì anh có người phụ nữ khác và đã tự ý bán hết nhà đi, sau khi trả hết nợ, anh chuyển cho tôi 300tr, phần còn lại anh giữ hết. Ngoài ra còn yêu cầu tôi cấp dưỡng nuôi con là 10 triệu/tháng
Xin hỏi trường hợp của tôi liệu có cách nào để lấy lại được số tiền mua nhà và mua xe trước đây mà tôi đã bỏ ra hay không? Tôi có giấy chuyển tiền về cho những lần mua nhà và mua xe. Mong nhận được hồi đáp từ phía công ty vào thời gian sớm nhất.
Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn dưới đây của Chúng tôi:
Theo thông tin chị cung cấp thì sau khi ly hôn chị có quay lại chung sống với chồng cũ nhưng không có đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống như vợ chồng, chị và chồng cũ có mua một căn chung cư nhưng nhờ người khác đứng tên hộ, sau đó chồng cũ của chị đã bán căn nhà đó đi và mua một căn chung cư mới trị giá do 1 mình chồng chị đứng tên. Sau khi đứng tên nhà, chồng chị tiếp tục bán nhà và chia cho chị 300 triệu. Ngoài ra, chị có mua xe hơi nhưng đều mang tên người chồng.
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn:
“Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp phápcủa phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập”.
Có thể thấy, theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014 trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận quan hệ hôn nhân. Khi có yêu cầu chia tài sản thì được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó, tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và theo nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích của phụ nữ và con.
Theo quy định tại Điều 219 Bộ luật dân sự 2015 về việc chia tài sản thuộc sở hữu chung:
“Điều 219. Chia tài sản thuộc sở hữu chung
1. Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán".
Tuy nhiên, để áp dụng quy định trên của Bộ luật dân sự về việc phân chia tài sản chung thì chị cần chứng minh được công sức đóng góp của mình trong việc tạo lập khối tài sản chung này như việc mua nhà, mua xe là từ nguồn tiền riêng của chị (do chị vay mượn người thân, sau khi vay mượn chị là lao động chính tạo ra thu nhập để trả nợ).
Cụ thể, chị cần chứng minh được trong thời gian chung sống, 2 người có mua một căn nhà đầu tiên (nhờ người khác đứng tên hộ) do vay mượn người thân hai bên, sau đó chị là lao động chính tạo ra thu nhập để trả nợ. Chị có thể dùng các giấy tờ chuyển tiền để chứng minh cho việc dùng số tiền đó để mua nhà và trả nợ.
Sau khi mua ngôi nhà thứ nhất và nhờ người khác đứng tên, chồng chị đã bán căn nhà đó đi và mua một căn nhà khác (nguồn tiền để mua căn nhà thứ hai này là do bán căn nhà cũ – là tài sản do công sức đóng góp của chị tạo lập nên). Khi đó, có căn cứ để chứng minh ngôi nhà thứ hai mà chồng chị bán trong thời gian chung sống với chị là tài sản chung của 2 người, và có phần lớn công sức đóng góp của chị trong đó. Khi chồng chị bán nhà, chị có quyền yêu cầu người chồng thanh toán cho mình khoản tiền tương ứng với công sức đóng góp của chị.
Tương tự đối với chiếc xe, mặc dù xe mang tên người chồng, tuy nhiên nếu như chị chứng minh được việc mua xe hoàn toàn dùng tiền của mình (chị có thể căn cứ vào giấy chuyển tiền cho chồng trùng với thời điểm mua chiếc xe) thì dù về mặt giấy tờ có đứng tên một mình người chồng thì chị vẫn có quyền yêu cầu người chồng trả phần giá trị tài sản tương ứng với công sức đóng góp của chị trong việc mua xe.
Do đó, trong trường hợp không thỏa thuận được với người chồng cũ thì chị có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi có yêu cầu chia tài sản, Tòa án sẽ xem xét công sức đóng góp của từng người để quyết định.
Lưu ý:
Văn bản pháp luật được áp dụng có hiệu lực ở thời điểm tư vấn, liên hệ với Công ty Luật TNHH Tháng Mười để được tư vấn miễn phí và sử dụng dịch vụ chuyên nghiệp - hiệu quả.
Quý khách hàng vui lòng liên hệ: Điện thoại: (024) 66.558.661 - 0936.500.818 Hoặc gửi về địa chỉ email: congtyluatthang10@gmail.com
Sự hài lòng của bạn, là thành công của chúng tôi!
Bình luận: